Bài 2: Những hình thức cơ bản của tư duy biện chứng

Bài giảng Logic học Bài 2: Những hình thức cơ bản của tư duy biện chứng cung cấp các nội dung chính về biện chứng của khái niệm và khái niệm biện chứng, biện chứng của phán đoán và phán đoán biện chứng. Để nắm nội dung chi tiết bài giảng, mời các bạn cùng eLib.VN tham khảo nhé!

Bài 2: Những hình thức cơ bản của tư duy biện chứng

Hình thức (thực chất là cấu trúc) và biện chứng (thực chất là mâu thuẫn và biến hóa mâu thuân) là hai mặt của cùng một bản chất thực tại. Tư duy phản ánh thực tại đương nhiên là có đặc trưng hai mặt đó. Song, do quan hệ tư duy - thực tại thực chất là mâu thuẫn thống nhất, cho nên hình thức và cả biện chứng đều bị phân đối mâu thuẫn: phạm trù hình thức bị phân đối thành (1)- hình thức của tư duy (thực chất là cấu trúc của tư duy), (2)- tư duy hình thức (thực chất là tư duy về hình thức của đối tượng) và phạm trù biện chứng cũng tương tự như thế bị phân đối ra thành: (1)- biện chứng của tư duy (thực chất là mâu thuẫn và biến hóa mâu thuẫn của tư duy), (2)- tư duy biện chứng (thực chất là tư duy về mâu thuẫn và biến hóa mâu thuẫn của thực tại).

Tư duy biện chứng thể hiện qua tính chất biện chứng của khái niệm, phán đoán, lập luận, giả thuyết và các phương pháp tư duy.

Khái niệm, phán đoán, lập luận và giả thuyết là những hình thức tư duy chung của tư duy hình thức và tư duy biện chứng. Nhưng ở tư duy hình thức thì những hình thức đó được triển khai theo nguyên tắc của tính đồng nhất trừu tượng và phi mâu thuẫn, còn tư duy biện chứng thì dựa trên tính chất biện chứng của khái niệm, thông qua sự vận động mâu thuẫn của hình thức tư duy mà đi sâu phản ánh bản chất bên trong của thế giới khách quan và của xã hội con người.

1. Biện chứng của khái niệm và khái niệm biện chứng

Khái niệm là "tế bào" và "mầm mống" ban đầu của tư duy biện chứng, một mặt nó cô động những thành quả nhận thức của con người, nó là hình thức kết tinh, tổng kết lịch sử tư duy con người, mặt khác, nó lại là khởi điểm mới của nhận thức của con người.

Trong mâu thuẫn nội tại của khái niệm, bao hàm những mầm mống của mọi diễn biến của phán đoán, lập luận và hệ thống lý luận sau này. Đối với lôgic hình thức, khái niệm đồng nhất trong bản thân nó, không có mâu thuẫn bên trong. Trái lại. tư duy biện chứng lại coi nghiên cứu tính chất mâu thuẫn của khái niệm là tiền đề, là cơ sơ của hình thức và phương pháp tư duy biện chứng.

Biện chứng của khái niệm, với hạt nhân của nó là mâu thuẫn biện chứng, là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập cấu thành khái niệm như chủ quan và khách quan, nội hàm và ngoại diên, trừu tượng và cụ thể, v.v.. Những mâu thuẫn biện chứng này vừa làm thành cơ sở của sự tồn tại, vừa trở thành nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của khái niệm.

Khái niệm là sự thống nhất của hai mặt đối lập chủ quan và khách quan, về mặt hình thức, khái niệm là chủ quan; về mặt nội dung, khái niệm là khách quan. Khái niệm là của con người, với tư cách là chủ thể nhận thức, là sản phẩm do con người tạo nên, trên ý nghĩa đó, khái niệm có tính chất chủ quan, về mặt nội dung, khái niệm phản ánh sự vật khách quan, do đó mà mang tính chất khách quan. Trong quá trình tư duy, bản thân khái niệm đã hình thành sự vận động mâu thuẫn của chính nó, quy đện cùng thì mâu thuẫn đó phản ánh sự vận động mâu thuẫn khách quan: Sự thống nhất của hai mặt đối lập lính chù quan và tính khách quan của khái niệm là diêm xuất phát của tư duy biện chứng.

  • Khái niệm là sự thống nhất của hai mật: Tính linh hoạt và tính xác định. Sự vật mà khái niệm phản ánh đều có máu thuần bên trong ban thân nó do đó mà luôn luôn vận động, biện hóa và phát triển.
  • Vì vậy khái niệm phải có tính linh hoạt, tính biến động, luôn luôn vận động, chuyển hóa. Nhưng tính linh hoạt của khái niệm trong tư duy hiện chứng không loại trừ tính xác định của khái niệm. Khái niệm trong tư duy biện chứng là sự phản ánh các quá trình cụ thể và các quan hệ cụ thể của sự vật khách quan, do đó mà có tính xác định.
  • Tính linh hoạt và tính biến đổi của khái niệm thể hiện ra ở nội dung của nó luôn luôn đổi mới trên cơ sở hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Từ đó, dẫn đến kết quả là phải vứt bỏ khái niệm cũ, hoặc là "cải tạo" khái niệm vôh có để tạo ra một khái niệm mới.
  • Tóm lại, đối với tư duy biện chứng, vận động của sự vật khách quan và của hoạt động thực tiễn con người là cơ sở khách quan hình thành tính linh hoạt của khái niệm. Tính ổn định tương đối của sự vật ở mỗi giai đoạn, trong mối quan hệ nhất định là cơ sỏ khách quan cho tính ổn định của khái niệm. Tính linh hoạt của khái niệm bao hàm tính xác định và có liên hệ với tính xác định, tính xác định của khái niệm bao hàm tính linh hoạt và có liên hệ với tính linh hoạt.

Khái niệm là sự thống nhất của hai mặt tính trừu tượng và tính cụ thế. Khái niệm là có tính chất trừu tượng, nhưng sự trừu tượng khoa học lại phản ánh cái cụ thể khách quan một cách sâu sắc đúng đắn và toàn diện. Trong tu duy biện chứng, khái niệm không không là sự trừu tưọng làm mất đi nội dung phong phú của sự vật khách quan, mà là sự trừu tượng bao hàm nội dung cụ thể. Tư duy hiện chứng đòi hỏi phải chỉ ra mối quan hệ giữa lượng và chất của ngoại diên và nội hàm khái niệm. Trong logic hình thức, ngoại diên khái niệm càng rộng, thì nội hàm càng nghèo nàn còn ở lôgic biện chứng lại khẳng định ngoại diên khái niệm càng rộng thì nội hàm càng sâu sắc càng phong phú. chính vì nội hàm sâu sắc và phong phú mà khái niệm mói có the phản ánh sự vật được nhiều hdn và phong phú hơn.

Ví dụ đối với lôgic hình thức thì khái niệm "vật chất," có ngoại diên rộng lớn nhất, nhưng nội hàm lại nghèo nàn nhất, nội hàm của nó chỉ có một đặc điểm là thực tại khách quan, còn tư duy biện chứng lại thấy đặc điểm thực tại khách quan có tính sâu sắc, nó đã chỉ ra bản chất của mọi sự vật hiện tượng của thế giới vô tận, nên nó là khái niệm nói lên sự thống nhất ở tính vật chất của thế giới. Mác nói: những sự trừu tượng nhất bao giờ cũng chỉ phát sinh trong điều kiện của một sự phát triển cụ thể phong phú. trong sự phát triển này, cũng một tính chất ấy thể hiện ra là chung cho nhiều loại hay là chung cho tất cả. Đối với tư duy biện chứng cái trừu tượng chung nhất cũng có nghĩa là cái cụ thể phong phú nhất.

Khái niệm là sự thống nhất của cái chung và cái riêng. Lôgic hình thức đem cái chung và cái riêng được phản ánh trong khái niệm tách rời ra, còn tư duy biện chứng đòi hỏi cái chung và cái riêng được phản ánh trong khái niệm liên hệ và chuyển hóa cho nhau, đó là sự thống nhất của chúng. Trừu tượng khoa học sở dĩ là sự trừu tượng cụ thể đó là vì trong cái chung của nó đã bao hàm cái riêng.

  • Đối với tư duy biện chứng, việc khái quát rút ra cái chung từ những sự vật riêng lẻ, cụ thể sẽ không làm mất đi nội dung phong phú đa dạng của nó. Lênin, khi giải thích cái chung được phản ánh trong khái niệm khoa học đã dẫn ra câu nói của Hê ghen: "Không phải chỉ là cái phổ biến trừu tượng, mà là cái phổ biến bao hàm cả sự phong phú của cái đặc thù, cái cá thể, cái cá biệt". Lênin nhận xét đó là một tư tưởng "hay tuyệt".
  • Tư tưởng biện chứng sâu sắc đó đã nói lên khái niệm có sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng là khái niệm cụ thể, khái niệm đó cơ bản khác với khái niệm trừu tượng, nghèo nàn đã làm mất đi nội dung phong phú của cái riêng. Do khái niệm là sự thống nhất cái chung và cái riêng, mà có thể phát triển thành phán đoán, thống qua phán đoán mối quan hệ giữa chủ từ và tân từ làm cho mâu thuẫn giữa cái chung và cái riêng được triển khai.
  • Tóm lại, chỉ có hiểu được mâu thuẫn bên trong của khái niệm mới có thể hiểu được sự vận động của khái niệm, từ đó mà hiểu các hình thức khác của tư duy biện chứng như phán đoán, lập luận...

2. Biện chứng của phán đoán và phán đoán biện chứng

Phán đoán là một hình thức tư duy phức tạp hơn khái niệm, được phát triển lên trên cơ sở mâu thuẫn của khái niệm. Khái niệm và phán đoán nương tựa vào nhau, một mặt, bất cứ phán đoán nào cũng đều được tạo thành từ hai khái niệm hoặc nhiều hơn nữa, do đó không có khái niệm thì không có phán đoán; mặt khác, nội dung của bất cứ khái niệm nào đều được thể hiện thống qua phán đoán, định nghĩa của mỗi khái niệm là một phán đoán hay một hệ thống phán đoán, do đó mà không có phán đoán cũng không có khái niệm.

Phán đoán là sự phát triển của khái niệm hoặc là khái niệm được phát triển. Khái niệm là phán đoán ban đầu chưa được phát triển. Khái niệm và phán đoán đều là sự thống nhất của cái chung và cái riêng, chỉ có sự khác nhau là khái niệm và phán đoán ở vào những giai đoạn phát triển khác nhau của mâu thuẫn cái chung và cái riêng.

Logic hình thức cổ điển nghiên cứu nhiều về phán đoán, nhưng lại không nghiên cứu mâu thuẫn khách quan đã phản ánh trong phán đoán và sự vận động vốn có của thế giới khách quan như thế nào; cũng không nghiên cứu mối liên hệ tác dụng của các loại hình phán đoán khác nhau trong quá trình nhận thức. Những điều đó sẽ được thực hiện trong lôgic biện chứng.

Phán đoán trong lôgic biện chứng là phán đoán có nội dung phản ánh mâu thuẫn và sự phát triển của bản thân sự vật khách quan. Phán đoán trong lôgic biện chứng vạch ra mâu thuẫn bên trong của khái niệm nhìn chung có thể phân thành mấy loại như sau:

Biện chứng của chủ từ trang phán đoán biện chứng  

  • Trong phán đoán này chủ từ là khái niệm mà phán đoán vạch ra mâu thuẫn bên trong của nó, còn tán từ là phương tiện để chỉ ra mâu thuẩn của chủ từ chỉ ra đối tượng được chủ từ phản ánh sẽ chuyển thành mặt đối lập với chính nó. Ví dụ khẳng định chính là phủ định, sản xuất tiêu dùng, tiêu dùng là sản xuất, đường thẳng là đường cong.
  • Các phán đoán đó đều mang tính hình thức mâu thuẫn "S là không phải S" nó chỉ ra sự thống nhất giữa chủ từ và tán từ trong sự đối lập của hai cái đó. Về thực chất phán đoán biện chứng thể hiện quan điểm về sợ thống nhất của các mặt đối lập Công Tôn Long thời Cổ đại ở Trung Quốc đã phát biểu một nghịch lý: "Bạch mã phi mã" (ngựa trắng không phải ngựa) chứng tỏ ông đã nhận thấy mâu thuẫn biện chứng trong phán đoán.

Biện chứng của tân từ trong phán đoán biện chứng

  • Đặc điểm của phán đoán này là tân từ phản ánh mâu thuẫn của đối tượng khách quan, bản thân khái niệm tân từ xuất hiện là một khái niệm mâu thuẫn hoặc khai niệm đối chọi. Ví dụ; "sự phủ định biện chứng vừa là khẳng định lại vừa là phủ định". "sự chuyển hóa của người có tiền tệ thành ra nhà tư bản phải tiến hành trong phạm vi lưu thông đồng thời lại không tiên hành trong phạm vi lưu thông".., Phản đoán tân từ trong lôgic biện chứng mang hình thức mâu thuẫn là: "S là P lại là không phải P". Ở dây, P và không phải P thể hiện quan hệ mâu thuẫn hay quan hệ đối chọi, do đó mà vạch ra một cách sâu sắc mâu thuẫn bèn trong của khái niệm.

Mâu thuẫn biện chứng giữa các phán đoán

  • Đây chính là sự thống nhất biện chứng của hai phán đoán: Phán đoán khẳng định và phán đoán phủ định. Ví dụ: "Vận động có học là dạng vận động mà vật thể trong cùng một thời điểm vừa ở chỗ này vừa không ở chỗ này". Ở đây gồm có hai phán đoán mâu thuẫn nhau: Một phán đoán là phán đoán khắng định: "vật thể ở chẽ này", phản ánh tính gián đoạn của vận động cơ giới; một phán đoán là phán đoán phủ định: "vật thể không ở chỗ này", phản ánh tính liên tục của vận động cơ giớì. Hai phán đoán đó kết hợp lại với nhau đã vạch ra thực chất của vận động có giới và nội dung biện chứng của khái niệm "vận động cơ giới".
  • Trong quá trình phát triển của khoa học có rất nhiều phán đoán bao hàm sự mâu thuẫn như vậy. ’’Ánh sáng vừa là hạt lại vừa là sóng", "sự sống là đang sống và cũng là đang chết", "Sinh vật sinh sôi nảy nở vừa có di truyển vừa có biến dị",.. Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng bao hàm nhiều phán đoán mâu thuẫn như vậy: "thế giới vừa thống nhất vừa đa dạng", "sự vật luôn luôn vận động đồng thời cũng có đứng im tương đối". "Chân lý vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối". Những phán đoán bao hàm mâu thuẫn như vậy đều là những phán đoán khoa học đã được thực tiễn chứng minh, những phán đoán đó làm rõ những mâu thuẫn ỏ trong các khái niệm, làm cho các mâu thuẫn vốn ở trong trạng thái tiềm tàng được bộc lộ ra.

Những phán đoán biện chứng chú trọng đến quá trình phát triển của thực tiễn và của nhận thức để vạch ra mối liên hệ giữa hình thức của các loại phán đoán, vạch ra hình thức phán đoán này chuyên hóa sang hình thức phán đoán khác, vạch ra quá trình phát triển từ những hình thức thấp đến những hình thức cao. Lôgic biện chứng đã chỉ ra sự phát triển của các hình thức phán đoán như sau:

  • Sự phát triển từ phán đoán cái nhiên (hoặc nhiên) lên phán đoán minh nhiên (thực nhiên) rồi lên phán đoán tất nhiên. Ở đây, đã vạch ra quá trình đi sâu của các hình thức phán đoán dựa trên cơ sở tính khả năng, tính hiện thực và tính tất nhiên quá trình phát triển khách quan của sự vật.
  • Sự phát triển từ phán đoán đơn nhất lên phán đoán đặc thù rồi lên phán đoán phổ biến. Ở đây đã vạch ra quá trình nhận thức của con người từ hiện tượng đơn nhất đi sâu vào bản chất của cái dặc thù rồi vào bản chất của cái phổ biến. Ví dụ: "Ma sát sinh nhiệt" là một phán đoán đơn nhất, là điều mà con người thời tiền sử đã biết được. Sau đó trải qua một khoảng thời gian khá dài, đến năm 1842, Maye Giun và Cônđinh đã nêu lên phán đoán: "Mọi vận động cơ giới đều có thể do ma sát mà chuyên hóa thành năng lượng nhiệt". Đó là một phán đoán đặc thù. Sau đó 3 năm Maye lại đưa ra phán đoán: "Mọi hình thức vận động đều có thể và hơn nữa là tất yếu chuyển hóa thành hình thức vận động khác". Đây là phán đoán phố biến. Đến trình độ như vậy thì về nội dung và hình thức đều đạt tới mức độ phổ biến như nhau.
  • Phát triển từ phán đoán đồng nhất thành phán đoán mâu thuẫn biện chứng. Trong quá trình nhận thức của con người, thường lần lượt nhận thức từng mặt của mâu thuẫn, lần lượt đưa ra những phán đoán độc lập với nhau, mâu thuẫn với nhau, rồi sau mới đem những phán đoán đó kết hợp lại hình thành một phán đoán mâu thuẫn của tư duy biện chứng, vạch ra thực chất mâu thuẫn của đối tượng khách quan. Ví dụ, từ hai phán đoán mâu thuẫn nhau, tồn tại độc lập với nhau; "ánh sáng là hạt" và "ánh sáng là sóng" phát triển thành phán đoán mâu thuẫn hiện chứng; "ánh sáng vừa là hạt lại vừa là sóng". Như vậy, nếu không thừa nhận phán đoán biện chứng bao hàm mâu thuẫn thì không thể phản ánh đầy đủ toàn diện thế giới khách quan chứa đầy mâu thuẫn.
  • Giống như khái niệm, phán đoán cũng có tính biến đổi, cùng có đề ra phán đoán mới, vứt bỏ phán đoán cũ và "cải tạo" phán đoán cũ... Trong quá trình nhận thức luôn luôn có những nhận định mới phủ định những công thức cũ, phê phán những điểu đã nhận thức được... Đương nhiên tính linh hoạt và tính biến đổi của phán đoán không có nghĩa là con người có thể tùy tiện thay đổi một nhận định nào đó. Tính linh hoạt của phán đoán cũng thống nhất với tính xác định của nó. Sự biến dổi của phán đoán phải phù hợp với sự phát triển của bản thân sự vật khách quan và hoạt động thực tiễn của con người.
  • Như đã biết, lôgic hình thức cổ điển chỉ giới hạn trong phạm vi lôgic lưỡng trị chân lý, cùng với các quy luật lôgic hình thức giản đơn như luật đồng nhất: \(\forall x(x \leftrightarrow x)\), luật phi mâu thuẫn: \(\forall x(\overline {x \wedge \overline x } )\), luật bài trung: \(\forall x(x \vee \overline x )\)... đã giản đơn hóa biện chứng của tư duy nói chung, của phán đoán nói riêng.
  • Logic hình thức phi cô điển đã khác phục hạn chế đó bằng cách biện chứng hóa logic hình thức. Trước hết là thay thế nguyên lý lương trị chân lý bằng nguyên lý đa trị chân lý. Đa trị chân lý là phổ quát, lưỡng trị chân lý chỉ là trưòng hợp đặc biệt. Chân thực (đúng đắn) - giả dối (sai lầm) chỉ là những giả trị cực đoan của phán đoán. Giữa chúng có vô số giá trị trung gian gần chân thực (gần đúng) - gần giả dối (gần sai).
  • Nguyên lý đa trị chân lý thực chất là cơ sở của logic biện chứng và trở thành cơ sở của logic hình thức biện chứng hóa. Logic da trị, với tư cách một chuyên khoa logic hình thức phi cổ điển, được xây dựng từ đầu thế kỷ XX. Một trong nhũng người đi tiên phong, đó là Gi.Lucasêvích (J.Lukasiewicz). Vào năm 1920 ông đã xây dựng hệ logic đa trị đầu tiên đơn giản nhất, đó là logic tam trị.

Cơ sở của logic tam trị là logic mệnh đề tam trị. Theo đó, bất cứ mệnh đề (phán đoán) nào cũng thừa nhận có ba giá trị chán lý:

  • (1)- chân thực (ký hiệu bằng số 1),
  • (2) - giả dối (ký hiệu bằng số 0),
  • (3) - trung gian ở giữa (ký hiệu bằng số 1/2).

Các hàm mệnh đề (các phán đoán phức hợp) được định nghĩa như sau:

Phép phủ định:

P \(\overline P \)
1 0
1/2 1/2
0 1

Phép hội:

\(p \wedge q\) 1 1/2
1 1 1/2 0
1/2 1/2 1/2 0
0 0 0 0

Phép tuyển:

\(p \vee q\) 1 1/2 0
1 1 1 1
1/2 1 1/2  1/2
0 1 1/2 0

Phép kéo theo:

\(p \to q\) 1 1/2 0
1 1 1/2 0
1/2 1 1/2 
1 1 1 1

Một hệ quả thú vị là các công thức đúng trong lôgic đa trị chỉ bao hàm một bộ phận công thức đúng trong lôgic lưỡng trị, nhiều công thức đúng trong lôgic lưỡng trị không còn đúng trong lôgic đa trị nữa,

Thí dụ về những công thức đúng trong lôgic lưỡng trị vẫn còn đúng trong lôgic đa trị:

(1) P → P

(2) P → (q → P)

(3) Công thức De Morgan

\(\overline {p \wedge q} = \overline p \vee \overline q \)

\(\overline {p \vee q} = \overline p \wedge \overline q \)

Thí dụ về công thức đúng trong lôgic lưỡng trị, nhưng không còn đúng trong lôgic đa trị:

(1) Quy luật phi mâu thuẫn: \(\overline {P \wedge \overline P } = 1\)

(2) Quy luật bài trung: \(P \vee \overline P = 1\)

(3) \((P \wedge \overline P ) \to q\)

Theo nguyên lý biện chứng thì không có cái gì là nhất thành bất biến, tư duy nói chung và phán đoán nói riêng không nằm ngoài quy luật đó. Biện chứng của phán đoán không chỉ thể hiện bằng nguyên lý đa trị chân lý mà còn thể hiện bằng nguyên lý chân lý - một quá trình biến hóa mâu thuẫn. Không có chân lý vĩnh cửu, bởi vì chân lý là sự thống nhất mâu thuẫn giữa giá trị tuyệt đối và tương đối của nó.

Như vậy, lôgic đa trị không chỉ phản ánh tính đa dạng của đối tượng (một đặc trưng quan trọng của phép biện chứng) mà còn vượt bỏ các quy luật lôgic đơn giản hóa của lôgic hình thức cổ điển, như quy luật phi mâu thuẫn, quy luật bài trung,v.v.. Lôgic hình thức đa trị đã thay thế vào đó những quy luật lôgic hình thức biện chứng hóa, như quy luật đồng nhất tương đối, quy luật giảm trừ phi mâu thuẫn, quy luật chấp trung, v.v..

Quy luật biện chứng chung của quá trình nhận thức chân lý khách quan được Lênin tổng kết là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ đó quay về với thực tiễn, khi vận dụng vào vấn đề biện chứng của phán đoán là sẽ có quy luật cụ thể sau đây: từ phán đoán cảm tính đến phán đoán lý tính và từ đó quay về với phán đoán thực tiễn - đó là đại lộ của biện chứng phán đoán. Theo nghĩa từ nguyên, phán đoán là sự thống nhất mâu thuẫn giữa hai năng lực tư duy: phán đoán là vừa phán (nhận định, quyết định) vừa đoán (giả định, giả thuyết), do đó đương nhiên nó vừa tuân theo lôgic hình thức vừa tuân theo lôgic biện chứng.

Sự thống nhất giữa lôgic biện chứng và lôgic hình thức là cơ sở của lôgic học nói chung, của lôgic phán đoán nói riêng.

Trên đây là nội dung bài giảng Logic học Bài 2: Những hình thức cơ bản của tư duy biện chứng mà eLib.VN muốn chia sẻ đến các bạn sinh viên. Hy vọng đây sẽ là tư liệu hữu ích giúp các bạn nắm được nội dung bài học tốt hơn.

Ngày:11/11/2020 Chia sẻ bởi:Denni

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM