Bệnh tuyến vú

Hiện nay các bệnh lý liên quan đến tuyến vú đã trở nên khá phổ biến và gây nên sự lo lắng cho rất nhiều người, đặc biệt là các chị em phụ nữ. Tuy nhiên có thể thấy rằng, ngoài ung thư vú thì một số bệnh lý về tuyến vú là lành tính và không đáng lo ngại nếu được phát hiện, chẩn đoán và chữa trị sớm. Nhận thấy sự cần thiết đó, eLib.VN đã tổng hợp một số bệnh lý thường gặp về tuyến vú nhằm giúp các bạn trang bị những kiến thức cơ bản trong việc tìm hiểu và điều trị bệnh. Mời các bạn tham khảo!

1. Cấu tạo, chức năng của tuyến vú

1.1 Cấu tạo tuyến vú

Phần lớn cấu tạo vú là mô liên kết, mô mỡ và dây chằng Cooper. Vú được bọc bởi da, cấu tạo giải phẫu vú gồm:

  • Núm vú có thể có hình dẹt, hình tròn, hình nón hoặc hình trụ. Màu của núm vú tùy thuộc vào sắc tố của da và độ mỏng của da ở vùng núm vú. Các cơ của núm vú khá phức tạp, chúng bám chặt vào mô liên kết và các sợi cơ chạy theo ba hướng khác nhau là chạy xung quanh, chạy xéo, chạy ngược lên và duỗi dài vào trong mô liên kết của quầng vú.
  • Cấu tạo tuyến vú có khoảng 15-25 ống dẫn sữa và xoang chạy xuyên qua núm vú và mở ra ở đầu vú, được bao quanh bởi quầng vú đường kính từ 2-6 cm có màu từ hồng đến nâu sậm tùy theo độ tuổi, số lần sanh. Da của quầng vú có nhiều nốt nhỏ, không có lông, phía dưới là các tuyến nhờn Montgomery có vai trò tiết ra chất nhờn giúp ngăn ngừa núm vú và quầng vú bị nứt nẻ, hiện tượng này rất thường gặp ở giai đoạn cho con bú, còn giai đoạn 3 tháng cuối thai kỳ thì tuyến Montgomery phình to.
  • Da vú là vùng da mỏng bao quanh các mô tuyến của ngực. Vùng da này yếu và thường dễ biến dạng, đặc biệt là sau thời gian cho con bú.

Mạch máu và thần kinh của vú:

  • Cả hai giới nam nữ đều có một sự tập trung mạch máu và các đầu dây thần kinh trong núm vú. Động mạch nuôi vú được chia ra từ động mạch ngực gồm động mạch ngực trong, động mạch ngực trước, động mạch ngực sau.
  • Tĩnh mạch của vú chủ yếu là tĩnh mạch nách đổ vào tĩnh mạch ngực trong và tĩnh mạch ngực.
  • Bạch huyết đổ về ba chuỗi hạch là chuỗi hạch nách, chuỗi hạch ngực trong và chuỗi hạch trên đòn. Khoảng 75% bạch huyết từ vú đi đến các hạch nách cùng phía, phần còn lại đi đến hạch ức tới vú bên kia hoặc các hạch bạch huyết bụng. Hạch nách, hạch ngực, hạch dưới vai, hạch cánh tay, tất cả đều đổ vào hạch bạch huyết trung tâm rồi tới hạch trên nách. Sự dẫn bạch huyết ở vú liên quan đến ung thư học vì các tế bào ung thư có thể thoát ra từ khối u và trở thành bệnh ung thư có thể di căn đến các phần khác của cơ thể
  • Thần kinh do các nhánh trên đòn của đám rối cổ nông và các nhánh xiên của dây thần kinh gian sườn 2, 3, 4, 5 và 6. Một số lượng lớn các đầu tận cùng của dây thần kinh cảm giác truyền tín hiệu như sờ, đau và nhiệt thì chịu trách nhiệm về những xúc cảm tinh tế của quầng vú, và đặc biệt là núm vú. Cùng với những dây thần kinh cảm giác, hai đầu vú cũng có nhiều dây thần kinh đặc biệt của hệ thần kinh tự động, nó điều khiển các chức năng vô thức của cơ thể như tiêu hóa và tiết mồ hôi

Núi đôi đẹp, mềm và gợi cảm là do mô mỡ. Mỗi bên núi đôi nặng trung bình khoảng 500 gram, chiếm khoảng 4- 5% lượng mỡ trong cơ thể nhưng núi đôi cũng có thể bị xệ xuống một cách tự nhiên bởi tuổi tác do dây chằng ngày càng dãn ra. Núi đôi được nâng chủ yếu bởi dây chằng Cooper, cộng thêm sự nâng đỡ từ da bao vú, và điều này quyết định hình dạng của vú.

  • Vú hình dạng chuẩn: Núm vú hướng về phía ngoài và song song với mặt đất. Vú phải đều đặn và mềm, không có bằng chứng nào của sự sụt lún.
  • Vú võng: Núm vú hướng xuống dưới còn vú thì rũ xuống phía dưới mặt đất. Thường gặp nhất ở những phụ nữ gần đến tuổi mãn kinh. Phần mô giữ cho vú hướng lên trên bắt đầu mất tính đàn hồi và vững chắc. Ở những phụ nữ trẻ bị vú võng thường là do vú không được hỗ trợ đầy đủ trong quá trình phát triển ở tuổi dậy thì. Mô liên kết nâng đỡ cho vú có thể yếu đi và làm cho vú võng xuống. Những phụ nữ có vú lớn cũng có khả năng vú bị võng xuống tùy thuộc vào lượng mỡ bên trong vú.
  • Vú cúp: Vú không võng xuống mà hơi uốn vào trong ở phía trên quầng vú. Núm vú sẽ hướng lên trên và hơi thẳng đứng so với mặt đất.
  • Vú nhỏ: Có rất ít mô mỡ bên trong, núm vú và quầng vú thường là nhỏ. Vú nhỏ luôn luôn không được các phụ nữ chào đón.
  • Vú lớn: Những phụ nữ với vú lớn có thể tích mô mỡ lớn bên trong vú. Các núm vú và quầng vú thường lớn hơn so với những người khác.
  • Vú hẹp hoặc vú ống: Có dạng hình ống hoặc hình trụ hẹp cùng với núm và quầng vú rất nhỏ. Ở một số trường hợp, núm vú có thể nhô lên do mô vú bị thoát vị hoặc trồi ra ở phần đỉnh. Vú có hình dạng ống có nghĩa là 2 vú xa nhau do có phần nền nhỏ. Vú hẹp được phân loại nằm trong nhóm vú phát triển bất thường.
  • Ngực gà: Là loại dị dạng vú nặng, xương ức nhô ra phía trước và vú nằm phẳng dẹt ở trên lồng ngực. Vú không còn hình dạng thật sự của nó nữa. Nguyên nhân của tình trạng này là do dị tật bẩm sinh.
  • Ngực lõm: Ngược với tình trạng ngực gà, khi đó lồng ngực bị lõm vào trong.

1.2 Chức năng của tuyến vú

Bầu ngực cao săn chắc là niềm kiêu hãnh của phái nữ, mang lại những đường cong sinh lý hấp dẫn, tạo nên sự tự tin, kiêu kỳ của nữ giới. Chức năng vú là tiết ra sữa vào núm vú để nuôi con, làm người phụ nữ được nếm trải thiên chức làm mẹ. Vú cũng là đai khoái cảm tình dục quan trọng, mang lại khoái lạc thần tiên cho người phụ nữ, đồng thời khiến nam giới không ngừng mơ tưởng, ham muốn, đặc biệt là trong thời kỳ rụng trứng, sự tăng hormone estrogen trong cơ thể người phụ nữ làm cho vú căng phồng, quyến rũ.

2. Một số triệu chứng thường gặp của tuyến vú

2.1 Đau vú

Đau vú là biểu hiện bất thường phổ biến mà nhiều người đã trải qua, bao gồm cảm giác nặng ngực, đau nhói hoặc đau rát bỏng ở mô vú, có thể kèm theo sưng đỏ. Đau vú có liên quan đến kinh nguyệt gọi là đau vú chu kỳ. Triệu chứng đau vú phổ biến nhất ở phụ nữ tiền mãn kinh và sau mãn kinh. Đôi khi người bệnh không thể mô tả được chính xác vị trí đau trên vú.

Bên cạnh đó, đau vú còn xuất hiện không phụ thuộc vào chu kỳ kinh nguyệt với các đặc điểm như:

  • Đau một bên vú, thường khu trú tại một vùng nhất định.
  • Thường xảy ra ở những phụ nữ sau mãn kinh.
  • Triệu chứng đau xuất hiện hằng định, không giảm đi hay tăng lên theo chu kỳ kinh nguyệt.
  • Có thể xuất hiện trong bối cảnh viêm vú khiến vú sưng đỏ, người bệnh mệt mỏi và có sốt.

2.2 Tiết dịch núm vú

Núm vú tiết mủ hoặc máu là một trong những biểu hiện bất thường tại núm vú khiến người bệnh lo lắng nhiều. Dịch tiết bất thường có thể chảy ra ở đầu núm vú một cách tự nhiên hoặc chỉ chảy ra khi lấy tay bóp nhẹ núm vú.

Tiết dịch núm vú khá phổ biến ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, thậm chí khi không mang thai và không cho con bú. Mặc dù thỉnh thoảng ung thư vú biểu hiện bằng triệu chứng núm vú chảy mủ, tuy nhiên trong hầu hết các trường hợp, đây là dấu hiệu không quá nghiêm trọng.

Dịch tiết bất thường tại núm vú có nhiều đặc điểm khác nhau. Dịch tiết từ núm vú có thể đặc, loãng hoặc dính. Màu sắc của dịch tiết núm vú là một gợi ý có giá trị, giúp định hướng nguyên nhân gây bệnh:

  • Núm vú tiết dịch trắng đục hoặc vàng xanh, chứa mủ là biểu hiện của tình trạng viêm nhiễm mô vú và núm vú.
  • Dịch tiết có màu xanh lá thường xuất phát từ các nang vú.
  • Màu phô mai hoặc nâu xuất hiện trong những trường hợp tắc nghẽn ống dẫn sữa.
  • Núm vú tiết dịch trong hoặc có máu là biểu hiện của bệnh ung thư vú, đặc biệt khi chỉ xuất hiện ở một bên vú.

Triệu chứng tiết dịch núm vú bất thường còn có thể xuất hiện kèm theo các triệu chứng bất thường ở vú khác như:

  • Sưng đau vú
  • Có khối u vú hoặc vùng da cứng quanh núm vú
  • Núm vú tụt vào trong
  • Da núm vú thay đổi sắc tố bất thường, ngứa, có vảy.
  • Đỏ da vú
  • Tuyến vú teo nhỏ hoặc tăng kích thước
  • Sốt
  • Trễ kinh
  • Nôn, buồn nôn.
  • Tổng trạng mệt mỏi, suy kiệt.

2.3 Khối u vú

Khối u vú thường là triệu chứng bất thường ở vú, có thể khiến người bệnh đến các cơ sở y tế thăm khám đầu tiên, mặc dù hầu hết các trường hợp là lành tính. Ngoài ra, khối u vú còn là dấu hiệu gợi ý của các bệnh lý ác tính. Vì vậy, khi thấy có khối u vú hoặc các bệnh lý bất thường ở vú, người bệnh cần đến các trung tâm y tế để thăm khám, chẩn đoán và điều trị.

Một khối u với mật độ mềm, di động được và không dính sát với thành ngực thường xuất hiện trong những bệnh lý lành tính, phổ biến nhất là nang tuyến vú hoặc u xơ vú.

Một khối u vú có mật độ cứng chắc, không di động, dích với thành ngực, không gây đau, có thể gây co kéo và biến dạng tuyến vú có thể là gợi ý của bệnh lý ác tính tại vú.

Nhiều bệnh lý ở vú biểu hiện bằng các triệu chứng bất thường ở vú một cách đa dạng và thay đổi mức độ tùy theo từng căn bệnh. Vì thế các triệu chứng liên quan đến vú có thể là triệu chứng nguy hiểm của các bệnh liên quan đến vú như viêm vú, ung thư vú,.... Do đó, để đảm bảo sức khỏe khi thấy các dấu hiệu bất thường người bệnh nên đến các trung tâm y tế để thăm khám và có hướng chẩn đoán điều trị kịp thời.

3. Các bệnh lý thường gặp ở tuyến vú

Xơ nang tuyến vú

Xơ nang tuyến vú là một dạng tổn thương lành tính thường gặp ở nữ giới, nó thường do sự rối loạn nội tiết tố nữ gây ra. Bệnh thường gặp ở chị em độ tuổi 30-50. Đặc điểm nổi bật nhất sờ thấy các khối mềm, ranh giới không rõ xuất hiện nửa sau chu kỳ kinh nguyệt, gặp ở nửa ngoài vú hoặc có thể cả 2 bên vú.

Ung thư vú 

Ung thư vú là dạng u vú ác tính. Đa số các trường hợp ung thư vú xuất hiện từ các ống dẫn sữa, một phần nhỏ phát triển ở túi sữa hoặc các tiểu thùy. Ung thư vú nếu phát hiện và điều trị muộn có thể đã di căn vào xương và các bộ phận khác, đau đớn sẽ càng nhân lên.

Viêm tuyến vú

Bệnh viêm tuyến vú hay còn gọi là viêm tuyến sữa là tình trạng viêm nhiễm ở một hay nhiều ống dẫn sữa của vú, thường liên quan đến việc cho con bú và có thể trở nên nghiêm trọng nếu không được chẩn đoán và chữa trị triệt để. Viêm tuyến vú có thể do nhiễm khuẩn hoặc không nhiễm khuẩn.

4. Điều cần biết thêm về tuyến vú 

Nếu phụ nữ tăng hay giảm trọng lượng thì kích thước của vú cũng có thể thay đổi theo thời gian.

Việc vú tăng kích thước trong thời kỳ mang thai và khi cho con bú cũng là bình thường, chủ yếu do sự phình ra của tuyến vú trước khi thấy bụng to ra để đáp ứng lại hormone prolactin, nhất là trong 3 tháng đầu, vú trở nên cực kỳ mềm mại và lớn hơn để chuẩn bị sữa nuôi con.

Kích thước vú phụ nữ cũng thường thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt, đặc biệt trong hội chứng bí tiểu trước kỳ kinh hoặc có thể bị sưng nhẹ, đau, mềm trước khi kỳ kinh bắt đầu. Những dấu hiệu này cũng có thể xảy ra trong suốt quá trình rụng trứng.

Hai vú có thể có kích cỡ không bằng nhau đặc biệt là khi vú đang phát triển trong thời kỳ dậy thì. Thường số lượng phụ nữ có vú trái lớn nhiều hơn so với số phụ nữ có vú phải lớn một ít. Một số trường hợp hiếm gặp là một bên vú to (hoặc nhỏ) hơn bên kia rất nhiều hoặc hoàn toàn không phát triển.

Ngoài ra, vú phát triển quá mức là tình trạng liên quan đến sự phát triển quá mức của vú trong thời kỳ dậy thì hoặc trong một số trường hợp vú tiếp tục phát triển sau tuổi dậy thì. Vú kém phát triển là tình trạng một hoặc cả hai bên vú đều không phát triển trong thời kỳ dậy thì.

Sự phát triển của vú phụ nữ trong thời kỳ dậy thì là do các hormone sinh dục chủ yếu là estrogen. Hormone estrogen này đã được chứng minh gây ra sự phát triển giống như phụ nữ, làm vú to ra ở nam, gọi là hiện tượng nữ hóa. Hormone này còn được sử dụng trong các ca phẫu thuật chuyển đổi giới tính.

Vú cũng to ra như một hiệu ứng phụ bình thường của việc dùng thuốc ngừa thai.

Việc đàn ông âu yếm đến vòng một phụ nữ sẽ dẫn đến sự thay đổi về kích thước của ngực. Thậm chí tăng đến 25% kích thước ban đầu.

Ngực xệ do cho con bú hoặc ngực xệ khi có tuổi do mất đi độ săn chắc và đàn hồi. Thói quen hút thuốc hay việc tăng giảm cân nặn cũng là nguyên nhân làm cho ngực chảy xệ.

Lông mọc xung quanh ngực là bình thường vì không phải phụ nữ nào cũng mọc lông ở quầng đỏ xung quanh nhũ hoa. Tuy nhiên, trong khu vực này, nang lông cũng giống những vùng khác của da nên nếu lông có xuất hiện thì cũng là bình thường.

Nhũ hoa hình thành trong bào thai, điển hình nam giới cũng có nhũ hoa mặc dù không có chức năng gì vì tất cả đều phát triển giống nhau ở những tuần đầu của bào thai. Khi phôi thai được 60 ngày tuổi, hormone testosterone mới bắt đầu tham gia dẫn đến những thay đổi trong hoạt động của tế bào ở bộ phận sinh sản và não. Testosterone làm bào thai nam tiết ra các nhân tố ngăn chặn sự phát triển của các cấu trúc nữ và đồng thời tác động tới các đặc điểm giới tính khác. Do đó, nam giới dù có ngực nhưng là ngực phẳng, núm vú cũng lép.

Trên đây là một số thông tin tổng quan về tuyến vú, hy vọng sẽ hữu ích cho các bạn trong quá trình tìm hiểu và điều trị bệnh. Để biết rõ hơn về triệu chứng, nguyên nhân và cách điều trị một số bệnh lý thường gặp về tuyến vú, các bạn có thể tham khảo mục Bệnh tuyến vú mà eLib.VN đã tổng hợp được. Chúc các bạn nhiều sức khỏe!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM