Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Ngữ văn 12

Bài viết Nghị luận văn học này nhằm giúp các em nắm được cách làm một bài văn nghị luận về tác phẩm văn học. Đồng thời rèn luyện kĩ năng viết một bài văn hay. Mời các em tham khảo bài học dưới đây nhé, chúc các em học tập tốt!

Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Ngữ văn 12

1. Đề số 1

Đề : Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương [...] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại ko đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên.

Bài tham khảo:

Không đợi đến thế kỉ XX này con người mới có nhiều quan điểm về văn chương mà ngay ở thế kỉ XIX, Nguyễn Văn Siêu, một danh sĩ thời Nguyễn đã từng có ý kiến “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Song nói như Lê Quý Đôn “Văn chương là của công thiên hạ, ý kiến của mỗi người mỗi khác, phân tích thì được chứ không nên chê mắng”. Cho nên, ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đáng nên hiểu lại và hiểu như thế nào cho đúng.

Nguyễn Văn Siêu là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng được người đời tôn thờ là “Thần Siêu, Thánh Quát”. Quan niệm của ông không phải là một quan niệm dễ dãi, điều quan trọng là ta phải hiểu cho đúng ý nghĩa của câu nói “Văn chương chuyên chú ở văn chương”, “văn chương chuyên chú ở con người” là như thế nào?

"Văn chương chuyên chú ở văn chương" là loại văn chương chỉ chăm chút gò câu đẽo chữ, tìm những chữ thật kêu, những điển tích cổ bí ẩn... nói chung đấy là loại văn chương thuần tuý, là "văn" không cần biết nội dung, về tư tưởng, là loại văn chương thuần túy về hình thức.

"Văn chuyên chú ở con người" chính là loại hình văn chương viết lên từ cuộc sống của con người, hướng đến con người, "làm cho người gần người hơn" (Đời thừa – Nam Cao). Ở đây là các yếu tố hình thức là sự phát tiết anh hoa một cách tự nhiên, không cố ý. "Vọt lên từ suối là nước, từ tim người là máu" (Lỗ Tấn).

Như vậy đại ý của câu nói của họ Nguyễn là: Văn chương có giá trị khi lấy đề tài cảm hứng từ con người và vì con người.

Đầu tiên Nguyễn Văn Siêu nói "Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ". Ông thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một cái gì tốt lành cho con người, văn chương như thế là loại "không đáng thờ" không đáng để đọc, để học hỏi. Văn chương là gì nếu không nói về con người, về nhân sinh? Văn chương đầu cần đến những người thợ mà văn chương chỉ cần những khối óc của những "kĩ sư tâm hồn". Văn chương mà chỉ như những đoá hoa đẹp nhưng hữu sắc mà vô hương, thì nó đâu còn là văn chương nữa. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu rất giống như Cao Bá Quát đương thời:

"Đáng phàn nàn cho ta đóng chửa mà gọt giũa câu văn
Lải nhải nhai lại từng câu từng chữ
Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời?"

(Đề sát viện Bùi Công, yên đài anh ngữ khúc hậu).

Không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bắt đầu từ lòng thương cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương "một tấc đến trời", chỉ là một con sâu bé nhỏ hèn mọn ngạo mạn lố bịch có những ý nghĩa ngông cuồng, muốn đo cả vũ trụ. Những lời văn viết ra bằng sự khổ công gọt giũa trong bốn bức tường văn lạnh lẽo sẽ như một sinh vật tự dưỡng, văn chương thiếu cái mở lòng ra đón những vang động cuộc đời, thiếu sự hô hấp các dưỡng khí ngoài cuộc sống thì chỉ nhạt nhẽo, bủng beo có chăng chỉ là những đồ lạ mắt ! Họ Cao cho đó là "đồ con trẻ" là sản phẩm của một đôi tay khéo léo trong tâm hồn rỗng tuếch và giả dối. Anh đóng cửa phòng văn để viết những gì? Trong khi văn chương của anh là kia, là bầu trời bạt ngàn gió mới, là nắng ban mai hồng tươi sắc ngói. Anh đóng cửa để làm nghệ thuật, để đuổi bắt nghệ thuật khi nghệ thuật của anh ở ngoài kia, ở ngoài thanh sắc trần gian đầy sôi động: Anh có biết rằng:

Bài thơ anh làm chỉ một nửa mà thôi
Còn một nửa do mùa thu làm lấy

(Chế Lan Viên)

Văn chương chỉ biết lấy chủ nghĩa duy mĩ làm đích thì thử coi có đáng thờ chăng?"Văn chương phải có quan hệ với đời" (Ngô Thi Sĩ) và "Cuộc đời là nơi đi tới cũng là điểm khởi đầu của văn chương" (Tố Hữu). Nếu L.Tônxtôi vĩ đại bởi kiệt tác "Chiến tranh và hoà bình" thì cũng chính là kết quả của những lần ông xông pha nơi chiến trận tìm hiểu, ghi chép. Nếu đóng cửa phòng văn hì hục viết thì Chiến tranh và hoà bình nó có ra đời không? Nếu không gắn bó, đau đời Nguyễn Du có một Đoạn trường tân thanh không?

Văn chương không thể là như thế, văn chương để người ta gần gũi và tôn kính chứ không phải văn chương "hũ nút" mà người ta có thể "kính nhi viễn chí". Văn chương như vậy tuyệt đối là không đáng thờ. Khổng Tử đã từng dạy học trò rằng "Từ đạt nhi dĩ hí" (nghĩa là: văn từ cần đạt mà thôi, dễ hiểu mà thôi) điều quan trọng là cái "tâm" của người viết, nghĩa là thực tế, phải sống trong cuộc đời. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu gần giống như những văn học hiện thực Việt Nam vào giai đọn 1930-1945, lấy con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút hướng vào con người.

Cuộc đời cũ vốn cuồn cuộn sóng gió bão táp đau khổ ngày đêm cứ đổ dồn dập vào con người, vào nhân loại, là "lương tâm của mọi thời đại" (Balzac). "Văn phải chở đạo", phải làm cho con người tốt hơn tự hoàn thiện hơn hay ít ra cũng bắt gặp mình trong đó thì đấy mới là "văn đáng thờ".

Bùi Huy Bích, học trò của Lê Quý Đôn đã viết những ý kiến thật xác đáng: "Người quân tử đời sau biết chăm học chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần dần trở thành người có văn chương ấy là người bậc nhất. Những người tập làm văn chương rồi thấy được nghĩa lí trong đó, là bậc thứ hai. Còn hạng bét thì chỉ biết có văn chương mà thôi".

Nói đến "Văn chương đáng thờ" Nguyễn Văn Siêu muốn nói đến cái giá trị của văn chương. Là nghệ thuật đi sâu vào thế giới tâm hồn của con người thì văn chương phải vì con người, vì cuộc sống con người, là chiếc đũa thần gợi mở trong con người những cái đẹp cái hay mà triệt tiêu những gì xấu xa, có hại. Văn chương phải hướng đến Chân - Thiện - Mĩ phải khơi ở lòng người những tình cảm nhân ái, phải đem đến cho con người một tia nhìn mới. Có ai đã không từng thấy một thằng say nhâng nháo chửi đời nhưng có ai nhìn ra một anh Chí ao ước một thiên đường lương thiện như Nam Cao chưa? Có ai thấy được thế giới tâm hồn của A.Q chưa? Và có ai đã nhìn thấy được cái tình yêu cao quý của một "thằng gù" cực kì xấu xí như Quazimôđô dành cho Extiranđa chưa? Đọc số phận của chàng Quazimôđô hay Chí Phèo ai mà không nghe dâng lên một tí gì của xốn xanh, của một niềm thương yêu tủi hận như muốn nghẹn ngào... Và ta khẳng định rằng: Vâng, chỉ có những hình tượng xúc động lòng người mói là văn chương, còn thuần tuý dùng kĩ thuật chạm trổ cầu kì, làm xiếc ngôn từ để người ta xem như một trò giải trí, "đọc rồi quên ngay sau lúc đọc" đấy chỉ là "thợ" đàn với những con chữ, chứ không là nhà văn, nhà thơ. Người ta thường truyền giai thoại cụ Nguyễn Công Trứ đả kích lối sống sáo rỗng. Ông gặp các thầy cử trên đường khoa bảng, theo yêu cầu của họ, ông ngồi trên lưng bò vàng tủm tỉm đọc

"Sông Nhị Hà sâu ba mươi sáu thước.
Chim ăn chưa béo, cá không ăn bay về núi Hồng Sơn.
Nhớ thủa xưa vua Thần Nông giá sắt, vua Đế Thuấn canh vấn.
Cùng quăng, cùng quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại bò vàng chi liếm lá".

Một mớ ngôn từ vô cùng như thế mà ai cũng cho văn hay ý lạ. Cái tủm tỉm của Tồn Chất thâm thuý hay thay.

Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đúng song nếu so sánh với quan điểm nghệ thuật của Thạch Lam - Thế hệ hậu bối của "Thần Siêu" – thì có lẽ nhà văn trẻ này phát biểu toàn diện hơn: "Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc được thêm trong sạch và phong phú hơn".

Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà cụ Nguyễn Du viết:

Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài

(Truyện Kiều)

Rõ ràng, thi sĩ Tiên Điền không hề phủ nhận chữ "tài". Nhưng nếu coi văn học là một cái cây thì chữ "tài" chỉ là lá cành mà chữ "tâm" kia mới là gốc là ngọn. Cho nên nếu "văn chương" mà chỉ đơn thuần "chuyên chú ở con người" mà không "chuyên chú ở văn chương" thì liệu có còn giá trị nữa không? Còn là một bộ môn nghệ thuật nữa chăng?

Có văn chương nào lại không lấy con người làm đối tượng. M.Gorki đã khẳng định: "Văn học là nhân loại", ta phải hiểu rằng không thể tách rời văn chương và con người cũng như tách rời nội dung và hình thức biểu đạt của nó. Đành rằng người ta nói "tốt gỗ hơn tốt nước sơn" nhưng nếu cả gỗ và nước sơn đề tốt thì sao? Lẽ dĩ nhiên là tốt hơn! Cho nên nếu cái đẹp đích thực thì có chăng là ở thế giới của con người, và vì vậy văn chương chân chính (nghĩa là văn chương của cái đẹp) là văn chương luôn đi đến con người và thế giới con người. Văn chương là nghệ thuật, tức là nó đi tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp nhưng không thể có một cái đẹp thuần tuý lung linh nào ngoài cái thế giới con người. Đề tài cái đẹp văn chương không cần đâu xa lạ mà ở ngay những giản đơn bình thường nhất. Thực ra, văn chương chuyên chú ở văn chương và "văn chương chuyên chú ở con người" là hai mặt của một tờ giấy trắng. "Văn chương chuyên chú ở con người" nhưng không hề quay lưng với cái Đẹp, và ngược lại. Đỗ Phủ đã từng viết "Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu" ngôn ngữ phải làm cho người ta kính phục nhưng cái chứa đựng trong ngôn ngữ kia là gì mới là quan trọng. Một tác phẩm có giá trị thì không bao giờ là một tác phẩm thô vụng về ý thức: Khi anh nhìn thấy được những gì ẩn chứa sâu xa nhất của cuộc sống, anh đã có một cái tâm vĩ đại thì ắt hẳn anh không phải là một con người tầm thường, mà anh biết làm thế nào để nhân loại này hiểu anh, hiểu cái "tâm" của anh - Nguyễn Du để lại một Đoạn trường tân thanh tràn ngập lòng nhân đạo, nhưng ông cũng để lại một công trình nghệ thuật ngôn từ rất đặc sắc phong phú mà nếu thiếu chúng thì nội dung truyện Kiều chẳng làm say mê bao thế hệ con người.

Ở trên ta bàn đến cái khả năng có thể có sự kết hợp giữa "văn chương chuyên chú ở văn chương" và "văn chương chuyên chú ở con người". Nhưng nếu có một ai đó đưa bạn một sản phẩm và yêu cầu lựa chọn "Đây cái này là tốt gỗ" và đưa một sản phẩm khác bảo là tốt nước sơn, nếu biết giá trị của một cái hào nhoáng nhưng không ra gì và một cái giản dị nhưng vĩ đại bạn sẽ chọn bên nào?

Câu hỏi đó có lẽ sẽ là thừa. Cho nên, nếu văn chương chuyên chú ở con người thì dễ có giá trị hơn, nhưng "văn chương chuyên chú ở văn chương" thì chưa hẳn đã hay vì người ta chỉ đọc "đọc rồi quên ngay sau khi đọc".

Cái "tâm" là nguồn nuôi dưỡng để phát huy cái tài. Còn dù có tài đến đâu nếu dửng dưng trước đồng loại đến số phận con người thì cũng khó làm nên một ánh văn chương có giá trị. Vì tâm hồn con người không chỉ tiếp thu cái đẹp mà còn lại cái "nhân" rộng lớn, cái "tình" muôn thuở.

Cho nên, dẫu là gì đi nữa thì "chất" ở bên trong vẫn là yếu tố quyết định. Chữ "tâm" là động lực là yếu tố cần thiết nhất. Lịch sử văn học đã có ghi những hiện tượng có những người không hề có ý định làm văn, làm thơ nhưng lại là những người nghệ sĩ lớn, còn có những nhà văn nhà thơ trọn đời cũng không viết được một câi thơ có giá trị nào dù rất kiên tâm, rất dày công đẽo gọt ngôn từ.

2. Đề số 2

Đề: Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: "Phong cách chính là người". Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?

Bài tham khảo:

"Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay chỉ làm theo một vài kiểu mẫu... Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu suy nghĩ, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có", với nhà văn Nam Cao, ông đòi hỏi ở mỗi người cầm bút một sự sáng tạo riêng cho mình, để lại cho văn học những gì là của riêng mình. Nhà văn Pháp Buy-phông thì quan niệm "Phong cách chính là người". Quan niệm này phải chăng xuất phát từ mối quan hệ giữa nhà văn với những điều thuộc về riêng nhà văn đó?

Trong câu nói của Buy-phông, "Phong cách" là những nét độc đáo của riêng mỗi nhà văn thể hiện trong văn học. Đó là "những nguồn chưa ai khơi" nhưng nhà văn đó đã khơi tìm và hưởng được sự ngọt mát của nó. Cần hiểu rằng, phong cách của nhà văn được thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật.

Trong nội dung, phong cách nhà văn in đậm trong quan niệm về cuộc sống con người, việc lựa chọn đề tài, xây dựng chủ đề, cách lí giải vấn đề về cuộc sống con người... Có thể thấy rõ điều này ở nhiều nhà văn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Hồ Chí Minh... Nguyễn Tuân thường nhìn mọi sự vật, sự việc dưới góc độ của sự tài hoa. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà văn tìm thấy sự tài hoa của những nhà Nho hết thời trong những thú chơi tao nhã của họ: thả thơ, uống trà, ngâm vịnh... Sau Cách mạng, nhà văn lại say mê với sự tài hoa của những con người Việt Nam trong lao động, sản xuất... Nam Cao lại khác. Trước Cách mạng, ông đau đáu với đề tài về những người nông dân Việt Nam nô lệ bị tha hóa về tinh thần, nhân phẩm hay những nhà trí thức Việt Nam quằn quại trong nỗi đau vì bị "áo cơm ghì sát đất"...

Về nghệ thuật, phong cách nhà văn cũng được thể hiện đa dạng ở nhiều phương diện: phương thức biểu hiện, lựa chọn thủ pháp nghệ thuật, cách tổ chức kết cấu, tổ chức ngôn ngữ... Điều này cũng rất dễ nhận biết đặc biệt ở những tác giả lớn. Nhà thơ Tố Hữu thường chọn thể thơ lục bát, giọng điệu tâm tình ngọt ngào để thể hiện tình cảm tha thiết, chân thành của nhân vật trữ tình. Nhà văn Nam Cao lại rất dễ "bị" nhận ra bởi lối kể chuyện đảo trình tự tuyến tính hiện đại hay cách liên kết đoạn văn rất tài tình... Mỗi nhà văn lại có những ý tưởng độc đáo khác nhau trong cách thể hiện tác phẩm của mình. Và với độc giả, khi đọc một truyện ngắn, thưởng thức một bài thơ... không gì thích thú là việc phát hiện ra những nét đặc sắc về phong cách của các tác giả. Những nhà văn, nhà thơ có tài năng thực sự mới có thể định hình phong cách riêng của mình. Và giữa phong cách của mỗi tác giả lại có mối quan hệ chặt chẽ tới bản thân cá tính mỗi nhà văn. Trong văn học, phong cách được thể hiện sinh động như một thực thể bộc lộ những quan niệm cá nhân về văn học. Trong truyện ngắn của mình, Nam Cao luôn có vẻ khách quan, hờ hững với nhân vật. Ông gọi họ là "y", là "thị", miêu tả họ với những hình hài xấu xí, thậm chí là ghê rợn (đặc biệt là những người nông dân). Nhưng đằng sau những trang văn tưởng như lạnh lùng, khinh thị ấy là tấm lòng đồng cảm thấu suốt là tình thương đến nhói buốt của một tấm lòng đồng ái, đồng chủng. Ngoài đời, con người Nam Cao cũng có dáng vẻ giống như giọng điệu văn chương của ông trong truyện ngắn. Nhắc đến Nam Cao, những người bạn văn nhớ đến một dáng vẻ trầm lặng, ít nói, nhưng thực chất, ẩn đằng sau dáng vẻ phẳng lặng, im ắng ấy là một tinh thần sôi nổi, quyết liệt. Chỉ có những tính cách mạnh mẽ mới có thể phát biểu thế này: "Sống đã rồi hãy viết"!

Phong cách của nhà văn in đậm lên từng trang viết. Đến lượt mình, phong cách văn học của mỗi tác giả lại in sâu vào lòng người đọc tạo nên mối đồng cảm sâu sắc giữa những nhà văn, nhà thơ và những độc giả chân thành.

Đưa ra một nhận định đúng đắn, Buy-phông định hướng cho những nhà văn hay những người ôm mộng văn chương phải biết định hình cho mình một phong cách riêng nổi bật. Đó phải là phong cách của riêng anh để người đọc nhận ra đó là anh chứ không phải là người khác. Đến lượt mình, mỗi độc giả cần là một người đọc thông minh biết tìm tòi, suy nghĩ phát hiện nét phong cách riêng của mỗi nhà văn.

3. Đề số 3

Đề: Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e:" Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra".

Bài tham khảo:

Giá trị của một tác phẩm văn học là lí do tồn tại của tác phẩm ấy đồng thời là cơ sở để khẳng định tài năng và tâm huyết của người sáng tạo ra nó. Những tiêu chuẩn nào thường được đưa ra để đánh giá giá trị của tác phẩm? Theo quan niệm của nhà văn người Pháp La Bơ-ruy-e thì “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra”. Vậy cần phải hiểu ý kiến này như thế nào?

Văn học là sản phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ phản ánh hiện thực khách quan qua lăng kính chủ quan của tác giả. Khi đến với độc giả, ở từng thời kì khác nhau lại có những cách tiếp nhận khác nhau. Nhưng có thể nói, tất cả đều tựu trung ở những giá trị mà tác phẩm đó mang lại.

Đi vào tìm hiểu ý kiến của La Bơ-ruy-e trước hết cần phải hiểu thế nào là một cuốn sách hay? Đây là một khái niệm cụ thể nhưng cũng được dùng với ý nghĩa chỉ chung cho tất cả các sáng tác văn học nghệ thuật. Có người lấy sự sáng tạo của người nghệ sĩ, lấy sự “phát minh về hình thức và khám phá về nội dung” làm tiêu chí để đánh giá một tác phẩm hay, hoàn thiện; Có người lại lấy nội dung thể hiện cuộc sống, con người trong tác phẩm làm cơ sở xem xét tác phẩm đó như thế nào, có “đáng thờ” hay không?... Còn người nghệ sĩ thực sự, theo họ, phải là người biết đồng cảm với những khổ đau của con người, “tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường; bênh vực những con người không còn được ai bênh vực” (Nguyễn Minh Châu), là người “không có phép thần thông để vượt ra ngoài thế giới này nhưng thế giới này trong con mắt nhà văn phải có hình sắc riêng” (Hoài Thanh)… Cũng như sự gặp gỡ trong tử tưởng và quan niệm, La Bơ-ruy-e cho rằng khi tác phẩm “nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quí và can đảm” thì đó là tác phẩm thực sự, do một nghệ sĩ viết ra. Thực ra cũng không hẳn là “không cần tìm một nguyên tắc nào” khác vì điều mà La Bơ-ruy-e nêu ra xét đến cùng cũng chính là những tiêu chuẩn mang tính hệ quả từ những nguyên tắc đánh giá về văn chương. Mọi tác phẩm đã được coi là có giá trị thì cuối cùng đều hướng tới đích lớn nhất là con người. Đó là việc nâng cao tư tưởng, tình cảm, tức đánh giá tác phẩm dựa vào giá trị nhận thức, thẩm mĩ và giáo dục mà nó mang lại.

Có thể nói, quan niệm của La Bơ-ruy-e là quan niệm đúng đắn được đúc kết từ thực tế sáng tác. Điều hiển nhiên khi một tác phẩm nghệ thuật đạt được đến những giá trị như La Bơ-ruy-e nói thì nó thành công, thế có nghĩa là nó là một tác phẩm, một cuốn sách hay. Và tất nhiên người sáng tạo ra một tác phẩm như thế phải là người có tài năng và tâm huyết, nghĩa là một nghệ sĩ đích thực với đúng nghĩa của nó.

“Tác phẩm nâng cao tinh thần của ta lên” vì thông qua chức năng nhận thức, văn học cung cấp cho con người hiểu biết về thế giới vật chất và tinh thần. Nắm bắt được quy luật cuộc sống, con người sẽ có thể chủ động hơn trong mọi trường hợp. Thế giới tinh thần không chỉ được nâng cao mà còn được bồi dưỡng và làm cho ngày càng trở nên phong phú.

Bên cạnh đó, thông qua bản chất thẩm mĩ của thế giới thể hiện trong tác phẩm mà văn học giáo dục, bồi dưỡng tình cảm của con người cũng như phát triển những phẩm chất thẩm mĩ tốt đẹp của họ, làm cho họ ngày càng hoàn thiện hơn. “Tham gia vào hoạt động văn chương cho dù là sáng tác hay thưởng thức, người ta đều được “thanh lọc”, ít nhiều sẽ trở nên tốt hơn, nhân ái hơn. Trong thế giới xô bồ ồn ã hiện nay, khi con người ta luôn bị lôi ra bên ngoài, bị cuốn vào đám đông và bị nhu cầu vật chất cám dỗ dữ dội thì thi ca, văn chương lại càng cần thiết” (Nguyễn Văn Hạnh – Ý nghĩa của văn chương).

Văn học dân gian Việt Nam từ xưa đến nay được biết đến như một kho tàng văn hóa của dân tộc, một đời sống tinh thần vô cùng phong phú và đa dạng. Ngay từ thời xưa ông ta đã dùng ca dao, dân ca, tục ngữ một cách phổ biến với tư cách là những kinh nghiệm dân gian trong lao động sản xuất, trong đối nhân xử thế, những lời than thân, những tình cảm yêu thương tình nghĩa. Chúng không chỉ góp phần nâng cao tinh thần mà còn gợi và bồi dưỡng cho ta những tình cảm yêu thương con người, yêu thương đồng loại. Trước khó khăn vất vả tưởng chừng như có thể gục ngã, ca dao giúp con người trở nên mạnh mẽ. Đó là câu chuyện của “Mười cái trứng” khi tất cả niềm hi vọng, ước mơ của người nông dân dồn vào thứ tài sản quí giá ấy thì bảy quả bị ung, ba quả nở ra ba con:

“Con diều tha
Con quạ bắt
Con mắt cắt xơi”

Người nông dân vẫn đầy lạc quan tin tưởng: “Còn da lông mục, còn chồi nảy cây”. Mỗi chúng ta tự nhìn nhận lại mình từđó mà vững vàng, mạnh mẽ hơn trước sóng gió cuộc đời.

Ca dao giáo dục quí trọng thành quả lao động vất vả mới có được:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”

Cao dao còn là những bài ca ca ngợi tình nghĩa thủy chung thương yêu giữa con người với nhau. Ta bắt gặp trong đó tình yêu mãnh liệt nhưng cũng thật tế nhị:

“Hôm qua tát nước đầu đình 
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen 
Em được thì cho anh xin 
Hay là em để làm tin trong nhà?” 
Bắt gặp tình cảm vợ chồng thủy chung son sắt: 
“Rủ nhau lên núi đốt than 
Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành 
Củi than nhem nhuốc với tình 
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên” 
Tình cảm gia đình đằm thắm: 
“Công cha như núi Thái Sơn 
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

Những bài ca dao ấy gợi lên trong ta thứ tình cảm trong sáng, thủy chung giữa con người với nhau. Đọc ca dao, ta có thêm nghị lực và niềm tin vào cuộc sống mà nuôi dưỡng, phấn đấu cho đời sống tinh thần và tình cảm của mình ngày càng tốt đẹp hơn.

Trong văn thơ trung đại, những bài học giáo dục được tồn tại trong một hình thức văn học quy ước sẵn và vì thế nên cũng mang nội dung quy ước nhất định. Thấy nhiều trong mảng thơ ca giáo huấn, bày tỏ lòng mình, bài học giáo dục mang tính trực tiếp. Thơ ngợi ca thì hào sảng “Bình Ngô đại cáo” là lời tuyên bố độc lập tự do của dân tộc, khơi dậy trong lòng mỗi người dân Việt Nam niềm tự hào:

“Như nước Đại Việt ta từ trước 
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu 
Núi sông bờ cõi đã chia 
Phong tục Bắc – Nam cũng khác”

Số phận bất hạnh của Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) không chỉ giúp chúng ta hiểu hơn về xã hội phong kiến thời bấy giờ cũng như bồi dưỡng thêm những tình cảm con người tốt đẹp: sự đồng cảm, trân trọng, xót thương…

“Đau đớn thay phận đàn bà 
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Truyện “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu) xây dựng hai hình tượng nhân vật đẹp, lí tưởng là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Tình yêu thủy chung son sắt của Nguyệt Nga một lần nữa bổ sung thêm vào thế giới hình tượng đẹp về người phụ nữ. Còn đức tính hào hiệp “giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha” của Vân Tiên cũng là một điều đáng cho chúng ta học tập.

Với những tác phẩm như vậy, các nhà thơ trung đại như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu… xứng đáng là những nghệ sĩ lớn. Bước sang thời kì hiện đại, văn học không chỉ bó mình trong những khuôn mẫu có sẵn mà ngày càng mở rộng và trở nên gần gũi hơn với cuộc sống con người nhưng không vì thế mà làm giảm đi tính giáo dục, thẩm mĩ. Tô Hoài đi vào khai thác thế giới loài vật với những dế mèn, dế chũi, chị bồ nông, anh xén tóc, vợ chồng nhà chuột… gửi gắm sau đó bài học sâu sắc về cách đối nhân xử thế giữa con người với nhau, bài học về tình đoàn kết, tinh thần yêu thương đồng loại. Cuộc phiêu lưu của Dế Mèn là một cuộc hành trình vươn tới hoàn thiện mình cả trong suy nghĩ và trong tình cảm, lối sống.

“Mùa lạc” (Nguyễn Khải) là câu chuyện thay đổi cuộc đời con người trong cuộc sống lao động mới. Đào, một người phụ nữ kém may mắn, chịu nhiều bất hạnh cuối cùng cũng tìm thấy hạnh phúc của mình trên mảnh đất Điện Biên. Từ chao chát, chỏng lỏn chị trở thành một con người hoàn toàn khác. Chị chỉ mỉm cười bao dung trước những câu đùa của mọi người, bởi vì giờ đây họ đã trở thành những người “nhà trai, nhà gái” của chị. Ta hiểu thêm rằng trong mọi hoàn cảnh, nghị lực sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả.

“Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) mang đến cho người đọc thông điệp về cái đẹp đích thực. Nghệ thuật không chỉ là khám phá sự vật ở cái bề ngoài mà phải nhìn thấy được cái hiện thực bộn bề nằm ở bề sâu. Đó là chất cuộc sống làm nên giá trị của tác phẩm. Cái đẹp không phải đâu xa lạ à nằm trong chính những con người đang lăn lộn mưu sinh ngoài kia. Với người vợ chài lưới, điều quan trọng nhất và cũng là lí do để chị hi sinh tất cả những thứ khác đó chính là hạnh phúc và tương lai của những đứa con. Chị chấp nhận những trận đòn roi tàn nhẫn của chồng mà kiên quyết không li dị bởi chị biết trong cuộc sống khốn khổ của họ, anh ta cũng là một người bất hạnh; và cùng còn bởi một lí do khác quan trọng hơn: trên thuyền không thể không có đàn ông cũng như những đứa con của chị không thể không có cha. Người phụ nữ ấy đã nhận hết đau khổ về mình để những người xung quanh mình được hạnh phúc. Biết đồng cảm với số phận bất hạnh của họ, hiểu được ý nghĩa đích thực của cái đẹp trong cuộc sống nghĩa là chúng ta đang làm cho đời sống tinh thần tình cảm của mình phong phú, hoàn thiện hơn.

Giá trị của một tác phẩm cũng như tài năng của người nghệ sĩ thường được đánh giá bằng việc tác phẩm đó khai thác gì, đóng góp gì cho cuộc sống con người cũng như tác động như thế nào đến tư tưởng, tình cảm thẩm mĩ của người đọc trong những thời đại khác nhau. Nhận thức sâu sắc điều này có ý nghĩa to lớn đối với người sáng tác (phải làm sao để sáng tác ra được những tác phẩm được coi là “một cuốn sách hay”) và cả đối với quá trình tiếp nhận của bạn đọc: không chỉ tiếp nhạn các giá trị văn học mà còn cần đưa nó vào trong quá trình tự giáo dục bản thân cũng như ảnh hưởng tốt đến những người xung quanh.

Khi Đan-cô (Trái tim Đan-cô – M.Gorki) móc trái tim mình ra để soi đường cho đoàn người vượt qua cái tối tăm của rừng thẳm để đến với miền đất chan hòa ánh sáng và sự sống, chàng đã dũng cảm nhận lấy sứ mệnh vinh quang nhưng cũng đầy đau khổ của một người dẫn đường. Và từ đó trái tim Đan-cô mãi trở thành một hình ảnh biểu tượng cho những gì cao cả và đẹp đẽ của con người.

Văn học đã thể hiện được những giá trị vĩnh cửu của mình mà nói như La Bơ-ruy-e, nó đã “nâng cao tinh thần ta lên, gợi cho ta những tình cảm cao quí và can đảm…”

Ngày:11/12/2020 Chia sẻ bởi:Denni Trần

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM