NCKH: Hiện trạng công tác bê tông trong xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật thuộc lĩnh vực xây dựng ở Việt Nam

NCKH Hiện trạng công tác bê tông trong xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật thuộc lĩnh vực xây dựng ở Việt Nam trình bày trạng thái hiện tại của các ứng dụng công nghệ bê tông trong xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng tại Việt Nam và các vấn đề tồn tại cần phải giải quyết

NCKH: Hiện trạng công tác bê tông trong xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật thuộc lĩnh vực xây dựng ở Việt Nam

1. Mở đầu

Trong những năm gần đây, cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước việc xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm phục vụ phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể. Cùng với các tiến bộ mới về công nghệ bê tông của các nước trên thế giới và trong khu vực, Việt Nam đã làm chủ nhiều công nghệ thi công bê tông tiên tiến trong xây dựng. Với sự ra đời của các thế hệ phụ gia hóa học và phụ gia khoáng mới, tính năng của bê tông ngày càng được nâng cao và cải thiện. Cùng với tiến bộ của ngành chế tạo cơ khí, tự động hóa, công nghệ thi công bê tông tại Việt Nam đã đạt được các giới hạn mới về tính năng của bê tông và năng suất thi công. Bài báo trình bày hiện trạng ứng dụng công nghệ thi công bê tông trong xây dựng kết cấu hạ tầng ở Việt Nam và các vấn đề còn tồn tại.

2. Nội dung

2.1 Vật liệu sản xuất bê tông

Xi măng

Hiện nay, Việt Nam đang sản xuất các loại xi măng pooc lăng thông thường (PC), xi măng pooc lăng hỗn hợp (PCB), xi măng bền sulphat, xi măng xỉ, xi măng puzzolan, xi măng trắng, xi măng ít tỏa nhiệt. Trong đó xi măng thông thường (PC) và xi măng pooc lăng hỗn hợp (PCB) chiếm khối lượng chủ yếu. Xi măng pooc lăng thông thường ở Việt Nam có 3 mác: 30, 40, 50; xi măng pooc lăng hỗn hợp có 2 mác là 30 và 40. Hai loại xi măng này thường được chế tạo từ clinker mác 50 - 60. Tổng sản lượng xi măng năm 2011 của Việt Nam đạt 56 triệu tấn. Tổng công suất các nhà máy đã và đang xây dựng trên 100 triệu tấn/năm [1]

Phụ gia hóa học

Chủng loại và chất lượng của các loại phụ gia đang có mặt ở Việt Nam hiện theo gần sát với trình độ thế giới. Sau các thế hệ phụ gia, Lignosulfonate, Naphthalene sulfonate, phụ gia giảm nước mạnh thế hệ 3 trên nền Polycarboxylic đã được sử dụng ở Việt Nam vài năm nay. Với loại phụ gia này, cho phép chế tạo bê tông tự lèn (SCC), bê tông tính năng cao (HPC), bê tông ứng suất trước tại công xưởng mà có thể bỏ qua chưng áp và cho phép quay vòng ván khuôn nhanh

Phụ gia khoáng

Các loại phụ gia puzzolan, phụ gia xỉ hoạt hóa, phụ gia tro bay và tro tuyển được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam nhằm cải thiện các tính chất của bê tông, giảm lượng dùng xi măng, giảm thiểu việc tích chứa các phế thải công nghiệp. Việc sử dụng các loại phụ gia khoáng hoạt tính mạnh như Silicafume (SF), Metakaolin (MK), và tro trấu hoạt tính (RHA) của nhà máy nhiệt điện đốt trấu tại các vùng lúa, trong chế tạo bê tông tính năng cao (HPC) đã bắt đầu được quan tâm và đẩy mạnh

2.2. Công nghệ trộn và vận chuyển bê tông

Khối lượng bê tông sản xuất ở Việt Nam ước tính khoảng 50 triệu m3/năm cho cả nước với các phương pháp sản xuất và cách thức sản xuất khác nhau. Trong đó khoảng 17 triệu m3 được sản xuất bằng máy trộn các loại. Các trạm trộn bê tông tùy loại mà sử dụng máy trộn cưỡng bức trục đứng kiểu hành tinh hay cưỡng bức 2 trục ngang. Việc tự động hóa và điều khiển trạm trộn được số hóa ở mức tiên tiến. Công suất máy trộn tại các trạm trộn ở Việt Nam thường có các loại 60 m3/h, 80 m3/h, 125 m3/h. Đặc biệt một số công trình thủy điện được trang bị máy trộn công suất lên đến 250 m3/h cho phép trộn hỗn hợp bê tông rất khô, Dmax cốt liệu lớn

2.3 Công nghệ bê tông trong xây dựng kết cấu hạ tầng

Hơn 10 năm qua, nhiều công trình thủy điện với hàng chục đập bê tông lớn nhỏ đã được xây dựng ở Việt Nam. Các đập này vừa đóng vai trò tích nước phát điện và vừa điều tiết lũ. Tùy vào chức năng, điều kiện tự nhiên của từng công trình cụ thể, các đập bê tông ở Việt nam được lựa chọn xây dựng bằng nhiều công nghệ khác nhau như đập trọng lực, đập vòm, đập bê tông bản mặt đá đổ (đối với công trình thủy điện hoặc thủy lợi), đập xà lan, đập trụ đỡ (đối với công trình thủy lợi)... Trong đó, đập trọng lực chiếm số lượng nhiều nhất và chủ yếu được thi công bằng công nghệ bê tông đầm lăn (RCC)

3. Kết luận

Trong 10 năm qua, cùng với công nghệ xây dựng nói chung, công nghệ thi công bê tông ở Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Với các công nghệ thi công bê tông mới, các công trình xây dựng đã được thi công nhanh hơn, tính năng cao hơn và tiết kiệm chi phí hơn. Đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật cũng đã nhanh chóng trưởng thành và dần làm chủ được các công nghệ mới, giảm dần sự hỗ trợ kỹ thuật từ nước ngoài

4. Tài liệu tham khảo

TRẦN BÁ VIỆT, Những thành tựu công nghệ xây dựng sau 10 năm đổi mới, Báo cáo tham luận lĩnh vực vật liệu, 2011.

Viện nghiên cứu khảo sát thiết kế Côn Minh KHIDI, Kỹ thuật xây đập RCC ở Trung Quốc.

Viện KHCN Xây dựng, Báo cáo tổng kết đề tài "Nghiên cứu hiệu quả áp dụng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn dùng xi măng làm đường bê tông", 2010.

- Nhấn nút TẢI VỀ hoặc XEM ONLINE để tham khảo đầy đủ nội dung NCKH kiến trúc- xây dựng trên-

Ngày:07/09/2020 Chia sẻ bởi:An

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM