Soạn bài Lục Vân Tiên gặp nạn Ngữ văn 9 đầy đủ

Nội dung bài soạn Lục Vân Tiên gặp nạn sẽ giúp các em nắm được chủ đề của đoạn trích là sự đối lập giữa cái thiện và cái ác. Để tìm hiểu xem nhân vật đại diện cho cái ác, nhân đại diện cho cái thiện là ai?. Các em hãy cùng eLib tham khảo bài soạn dưới đây. Chúc các em học tập tốt!

Soạn bài Lục Vân Tiên gặp nạn Ngữ văn 9 đầy đủ

1. Soạn câu 1 trang 121 SGK Ngữ văn 9 đầy đủ

- Chủ đề trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn: sự đối lập giữa thiện và ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn. Tác giả đề cao cái thiện, phê phán cái ác, thể hiện niềm tin vào những điều tốt đẹp, niềm tin đối với nhân dân lao động.

- Tám câu thơ đầu là hành động tội ác của Trịnh Hâm và đoạn sau miêu tả việc làm nhân đức cùng cuộc sống trong sạch, nhân cách cao cả của ông Ngư.

2. Soạn câu 2 trang 121 SGK Ngữ văn 9 đầy đủ

- Chỉ sáu câu thơ đầu tác giả đã vạch trần bộ mặt gian ác của Trịnh Hâm:

"Đêm khuya lặng lẽ như tờ,

Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.

Trịnh Hâm khi ấy ra tay,

Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.

Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,

Cho người thức dậy lấy lời phui pha."

- Lục Vân Tiên đã bị mù cả hai mắt, công dang dang dở, đang bơ vơ giữa nơi đất khách quê người. Tâm địa độc ác của Trịnh Hâm qua hành động hãm hại bạn : Đang tâm hãm hại một con người tội nghiệp, đang cơn hoạn nạn, tin tưởng mình. Phản bội bạn bè, phản bội lời hứa của chính mình. Chỉ vì ganh ghét, đố kị, lo sợ tài năng của chàng thư sinh họ Lục ngăn trở đường công danh của mình. Trịnh Hâm thực hiện tội ác có chủ đích : Chọn lúc đêm khuya vắng lặng để đẩy Vân Tiên xuống sông, xong còn giả tiếng kêu trời, ra bộ không liên quan, kể lễ nhằm che đậy sự việc, đánh lạc hướng mọi người. Con người Trịnh Hâm vô cùng nham hiểm.

- Với sáu câu thơ rất ngắn gọn nhưng rất mạch lạc, kết cấu hoàn chỉnh, tác giả như dựng lên một vở kịch: có thời gian (đêm khuya), có không gian (trên thuyền, bầu trời tối mịt mờ), có nhân vật (Trịnh Hâm, Vân Tiên), có sự việc và thấm chí sự việc còn được đẩy đến độ kịch tính. Người đọc không thể không căng thẳng theo dõi, lo lắng cho Vân Tiên và ghê sợ âm mưu thâm độc của Trịnh Hâm. Các tình tiết được đẩy nhanh, khá gọn và vì thế tạo nên hiệu quả bất ngờ: nhấn sâu thêm tâm địa đen tối của Trịnh Hâm, hắn đã tính toán rất kĩ lưỡng, chỉ cần ra tay hành động, rất nhanh và không một chút do dự. Ngôn ngữ tự sự dễ hiểu, bình dị cũng tạo nên sự tập trung chú ý của người đọc vào sự việc. Đoạn thơ diễn tả tính chất nhanh gọn của hành động.

3. Soạn câu 3 trang 121 SGK Ngữ văn 9 đầy đủ

- Ngoài mấy câu thơ đầu kể chuyện Trịnh Hâm hãm hại Vân Tiên, cả đoạn thơ dài còn lại Nguyễn Đình Chiểu dành để khắc hoạ hình ảnh cái thiện qua nhân vật ông Ngư cùng những hành động, lời nói và quan niệm sống của ông.

+ Cảnh ông Ngư và gia đình cứu Vân Tiên thật cảm động:

"Vừa may trời đã sáng ngày,

Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.

Hối con vầy lửa một giờ,

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày."

→ Rõ ràng hành động cứu người là điều ông Ngư làm một cách tự nhiên, không do dự (vớt ngay); sự hối hả, tìm mọi cách chữa chạy cũng rất chân thành, cả gia đình ông đều dốc lòng vào việc cứu người.

+ Khi Vân Tiên tỉnh lại, kể rõ nguồn cơn, ông Ngư ngay lập tức mời Vân Tiên ở lại cùng gia đình sốm hôm rau cháo:

"Ngư rằng: “Người ở cùng ta,

Hôm mai hẩm hút với già cho vui.”

→ Đúng như lời Vân Tiên đáp lại, lúc đó chàng một thân một mình, bơ vơ, yếu đuối, bệnh tật, đã mù cả hai mắt, có thể sẽ chỉ là gánh nặng cho ai cưu mang chàng. Nhưng ông Ngư đã không nề hà, ngần ngại, chân thành giữ chàng ở lại dù gia cảnh của ông cũng chẳng khá giả gì. Tấm lòng nhân hậu ấy thật khiến chúng ta cảm động.

+ Đặc biệt, đọc những dòng thơ cuối đoạn chúng ta bắt gặp quan niệm sống vô cùng cao đẹp của ông Ngư:

"Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,

Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?

Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi chi sờn lòng đây…”

+ Ở đoạn trích trước chúng ta cũng đã thấy tấm lòng “trọng nghĩa khinh tài” của Vân Tiên:

“Làm ơn há dễ trông người trả ơn…

Nhớ câu kiến ‘nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng."

→ Dù là cách nói khác nhau, nhưng nhân vật đã gặp nhau ở quan điểm coi thường danh lợi, vị tha, nhân hậu. Họ đều là những đại diện tiêu biểu cho cái thiện trong cuộc đời này.

+ Với quan niệm không lụy danh như vậy, ông Ngư đã có một cuộc sống phóng khoáng, tự tại, an nhàn:

"Rày doi mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng.

Một mình thong thả làm ăn,

Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.

Nghêu ngao nay chích mai đầm,

Một bầu trời đất vui thầm ai hay.

Kinh luân đã sẵn trong tay,

Thung dung dưới thế vui say trong đời.

Thuyền nan một chiếc ở đời,

Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang."

+ Ông Ngư nói về cuộc sống của mình với một niềm vui say tha thiết. Niềm vui đó không vướng chút bụi đời dung tục mà hoàn toàn gắn với thiên nhiên, một cuộc sống nghèo nhưng tự do, thanh thản, không bị ràng buộc. Cái tư thế một mình được nhắc tới khá nhiều: “một mình”; “một bầu trời”; “thuyền nan một chiếc”… Qua đó chúng ta nhận thấy một niềm tự hào, tự tôn được ẩn giấu. Đây không hẳn là sự kiêu hãnh như Từ Hải trong Truyện Kiều:

"… Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo

… Một tay gây dựng cơ đồ.

Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành."

+ Nhưng cũng là niềm tự hào của một người vốn “kinh luân đã sẵn trong tay”, một người hiểu biết, giỏi giang nhưng vượt qua được vòng tục lụy mà chọn con đường ở ẩn, lánh xa cõi bụi trần. Niềm vui ỏ đây gần vối tâm thế của Nguyễn Trãi khi ca ngợi thú nhàn nơi thôn dã:

"Côn Sơn suôi chảy rỉ rầm,

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai."

Hay như Nguyễn Bỉnh Khiêm ý nhị tự giễu mình:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao."

+ Cùng niềm vui say ấy, ông Ngư đã miêu tả cuộc sống thanh bần của mình thật phóng khoáng, hồn hậu. Qua đó, nhân cách cao đẹp của ông cũng được bộc lộ. Như vậy, ở Nguyễn Đình Chiểu, cái thiện luôn đi cùng cái đẹp, cái thanh cao.

⇒ Nhà thơ đã dành một đoạn thơ dài để khắc hoạ nhân vật ông Ngư. Đặc biệt, riêng ở những câu thơ miêu tả cuộc sống của ông, ngòi bút tác giả như thăng hoa, giọng điệu phóng khoáng. Những từ láy được sử dụng khá đặc sắc, thong thả, nghêu ngao, thung dung… Những hình ảnh liên tiếp, kéo từ dòng nọ xuống dòng kia với những vế câu ngắn, đăng đối, nhịp điệu dồn dập: “khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm”; “nay chích, mai đầm”; “tắm mưa, chải gió”… Tất cả tạo nên một không khí hào hứng, tươi tắn trong cả đoạn thơ. Điều ấy thế hiện tình cảm của tác giả rất rõ rệt. Phải trân trọng, yêu thương, tin tưởng như thế nào vào người dân lao động nghèo, Nguyễn Đình Chiểu mối có thể viết về họ một cách sâu sắc, say mê đến vậy. Có lẽ chính tình cảm ấy lại làm ngòi bút của ông thăng hoa.

4. Soạn câu 4 trang 121 SGK Ngữ văn 9 đầy đủ

- Những câu thơ em cho là hay nhất trong tác phẩm nằm ở đoạn thơ nói về Nói về cuộc trò chuyện giữa Lục Vân Tiên và ông Ngư:

"Ngư ông khi ấy hỏi han,

Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa

...... chi sờn lòng đây"

- Qua đoạn thơ ta thấy được cảm xúc khoảng đạt, giàu tình nghĩa, bình dị, dân dã và thấy được cái tình của người lao động. Những con người lao động nhưng giàu tình cảm, lòng thương người sâu sắc. Tác giả sử dụng nhiều hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, mở ra một khoảng thiên nhiên cao rộng, khoáng đạt, nên thơ…

5. Soạn câu 1 luyện tập trang 121 SGK Ngữ văn 9 đầy đủ

- Những nhân vật có thể xếp cùng một loại với ông Ngư ở đoạn trích này là: ông Tiều, ông Quán, bà lão dệt vải trong rừng.

- Họ có những đặc điểm chung là: Đều là những người dân lao động hiền lành, chất phác, giàu tình cảm và thương người.

- Qua đó tác giả muốn gửi gắm những giá trị tư tưởng cao đẹp, niềm tin vào cái thiện và công lý, ca ngợi những phẩm chất cao đẹp nơi người lao động.

Ngày:30/09/2020 Chia sẻ bởi:Minh Ngoan

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM