Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới Ngữ văn 9

Nội dung bài học dưới đây nhằm giúp các em nắm được ý nghĩa lịch sử của văn bản "Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới". Đồng thời, bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới này còn giúp các em rèn kĩ năng đọc, hiểu, phân tích văn bản nghị luận về vấn đề con người, xã hội. Mời các em cùng tham khảo nhé!

Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới Ngữ văn 9

1. Tìm hiểu chung

a. Tác giả:

- Vũ Khoan sinh ngày 7 tháng 10 năm 1937 quê ở huyện Phú Xuyên, Hà Tây (nay thuộc Thành phố Hà Nội).

Vũ Khoan nhà hoạt động chính trị nhiều năm làThứ là là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Thương mại hiện là phó thủ tướng chính phủ.

- Khi quân Pháp nổ súng tái chiếm Đông Dương, ông làm liên lạc viên cho chính phủ Việt Minh.

- Năm 1949, ông được đưa về Việt Bắc theo học tại Thiếu sinh quân Việt Nam.

- Năm 1951, ông được Chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lựa chọn và sang học tại "Dục tài học hiệu Nam Ninh".

b. Tác phẩm:

- Bài viết được đăng trên tạp chí Tia sáng năm 2001 và được in vào tập "một góc nhìn của tri thức".

- Nhan đề bài viết của tác giả là "Chuẩn bị hành trang". Khi đưa vào sách giáo khoa người biên soạn có bổ sung một số chữ vào nhan đề cho cụ thể hơn.

2. Đọc - hiểu văn bản

2.1. Ý nghĩa sự ra đời của bài viết

- Bài viết ra đời vào đầu năm 2001, thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỉ, hai thiên niên kỉ - thời điểm bắt đầumột chặng đường mới.

- Văn bản nêu lên vấn đề quan trọng về đất nước Việt Nam, chính là sự chuẩn bị để bước vào thế kỉ mới, để chuẩn bị cho điều đó lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để khắc phục điểm yếu phát huy điểm mạnh rèn những đức tính và thói quen tốt trước khi bước vào nền kinh tế tri thức.

- Ý nghĩa lịch sử của vấn đề: Vấn đề không chỉ có ý nghĩa thời sự mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với cả quá trình đi lên của đất nước. Bởi vì nhận rõ điểm mạnh và diểm yếu, phát huy điểm mạnh và khắc phục điểm yếu là điều kiện hết sức cần thiết để phát triển, nếu không muốn tụt hậu, đối với mỗi người và mọi dân tộc.Điều đó lại càng cần thiết với dân tộc ta khi thực sự đi vào công cuộc xây dựng, phát triển trong xu thế hội nhập, trong nền kinh tế có xu hướng toàn cầu hoá hiện nay.

2.2. Bối cảnh thế giới hiện nay

- Bối cảnh hiện nay: Một thế giới khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại, sự giao thoa hội nhập ngày càng sâu rộng giữa các nền kinh tế.

- Nước ta phải đồng thời giải quyết ba nhiệm vụ: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp;đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đồng thời phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức.

2.3. Những điểm mạnh điểm yếu của con người Việt Nam

- Thứ nhất: Chúng ta thông minh, nhạy bén với cái mới, nhưng kiến thức cơ bản không vững chắc, khả năng thực hành bị hạn chế.

- Thứ hai: Tác giả đã chỉ ra rằng người Việt Nam cần cù sáng tạo nhưng lại không có được tính tỉ mỉ từng chi tiết, nhất là chưa có thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương. Chúng ta có khả năng sáng tạo, nhưng chỉ loay hoay "cải tiến", làm tắt, chứ không coi trọng quy trình công nghệ.

- Thứ ba: Nhân dân ta có truyền thống đùm bọc, đoàn kết với nhau trong công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Nhưng trong công việc làm ăn, trong kinh tế thì lại phạm vào thói xấu "trâu buộc ghét trâu ăn", kèn cựa, ganh tị với nhau.

- Thứ tư: Bản tính thích ứng - một tính tốt nữa của chúng ta - sẽ giúp nhân dân ta mau chóng hội nhập với thế giới. Nhưng trong "hội nhập" đã xuất hiện vài thói xấu như "thái độ kì thị", "sùng ngoại", "khôn vặt",... không giữ chữ "tín", gây tác hại khôn lường...

=> Cái mạnh và cái yếu được phân tích đan xen với nhau; trong cái mạnh còn tiềm ẩn những cái yếu như những khuyết tật. Điểm mạnh và điểm yếu luôn được đối chiếu với yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước hiện nay chứ không chỉ nhìn trong lịch sử.

2.4. Đặc điểm ngôn ngữ của bài viết

- Tác giả không dùng cách nói trang trọng, cũng không sử dụng tri thức uyên bác ->Tác giả dùng ngôn ngữ báo chí gắn với đời sống, cách nói giản dị, trực tiếp dễ hiểu.

- Sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, vừa sinh động cụ thể lại ngắn gọn mà ý vị sâu sắc: Nước đến chân mới nhảy, liệu cơm mà gắp mắm, trâu buộc ghét trâu ăn, bóc ngắn cắn dài…

3. Tổng kết

- Về nội dung: Phát huy những điểm mạnh, hạn chế, khắc phục những điểm yếu, hình thành những thói quen tốt ngay từ những việc nhỏ.

- Về nghệ thuật:

+ Ngôn ngữ báo chí, gắn với đời sống, cách nói trực tiếp, dễ hiểu, giản dị.

+ Sử dụng cách so sánh: người Nhật, người Hoa trong cùng một sự việc, hiện tượng xong lại có các thói quen và ứng xử - khác nhau.

+ Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao cụ thể, sinh động.

4. Luyện tập

Câu 1: Em hãy viết đoạn văn nêu ý nghĩa của văn bản "Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới".

Gợi ý trả lời:

Vũ Khoan đã nhấn mạnh trong văn bản rằng nếu chúng ta muốn phát triển đất nước thì cần phải chuẩn bị hành trang cho bản thân thật tốt, cụ thể là thế hệ trẻ Việt Nam cần nhìn rõ cái mạnh và cái yếu của con người Việt Nam để rèn cho mình những đức tính và thói quen tốt. Thế mạnh của người Việt Nam là thông minh, nhạy bén với cái mới, cần cù sáng tạo, đoàn kết, đùm bọc nhau trong thời kì chống ngoại xâm. Bên cạnh đó cũng có nhiều điểm yếu cần khắc phục: thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành, thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, thiếu tính cộng đồng trong làm ăn. Bước vào thế kỉ mới, để đưa nước ta tiến lên, chúng ta cần phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu, hình thành những thói quen tốt ngay từ những việc nhỏ. Bài nghị luận chính trị xã hội được viết một cách giản dị, sâu sắc với những lí lẽ rành mạch, những dẫn chứng cụ thể, sinh động, ngôn từ vừa hiện đại, vừa đậm đà chất dân tộc, rất dễ hiểu, đầy tính thuyết phục. Ấy là những lời giải tường minh, khúc chiết cho một bài toán về trí tuệ, tâm hồn đối với chúng ta.

Câu 2: Vũ Khoan đã đưa ra những lời khuyên như thế nào đối với người Việt Nam?

Gợi ý trả lời:

- Sau khi đã chỉ ra những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam, Vũ Khoan đã đưa ra những lời khuyên, lời kêu gọi thay đổi nội hàm nguồn nhân lực để "sánh vai cùng các cường quốc năm châu".

- Lời khuyên của Vũ Khoan chính là chúng ta cần phải tạo cho bản thân thật nhiều những điểm mạnh và bài trừ những điểm yếu của bản thân mỗi người, và muốn có được điều này ông nhấn mạnh tầm quan trọng, có ý nghĩa quyết định của việc thay đổi và giáo dục tầng lớp thanh niên "hãy làm cho lớp trẻ - những người chủ thực sự của đất nước trong thế kỷ tới - nhận ra điều đó, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất".

- Sở dĩ nói như vậy bởi tầng lớp thanh niên là nguồn nhân lực lớn và dồi dào nhất, có khả năng, sức khỏe, trí tuệ, cũng là tầng lớp dễ thay đổi, thích nghi, khả năng học tập sáng tạo cao. Khi thay đổi dần những thói quen nhỏ cho tốt thì ắt hẳn rằng với trình độ, trí tuệ và sự phấn đấu của con người Việt Nam chúng ta sẽ sớm sáng vai cùng với các cường quốc năm châu như lời kỳ vọng của Bác.

5. Kết luận

Sau khi học xong bài này, các em cần nắm một số nội dung chính như sau:

- Ý nghĩa lịch sử của bài viết, hệ thống luận điểm và luận cứ .

- Nắm được trình tự lập luận và nghệ thuật nghị luận của tác giả.

- Tích hợp với tiếng Việt và tập làm văn.

- Rèn kĩ năng đọc, hiểu, phân tích văn bản nghị luận về vấn đề con người, xã hội.

Ngày:15/12/2020 Chia sẻ bởi:Tuyết Trịnh

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM