Soạn bài Khái quát VHVN từ TK X đến hết TK XIX Ngữ văn 10 đầy đủ

Nội dung bài soạn dưới đây nhằm giúp các em nắm được các thành phần chủ yếu và các giai đoạn phát triển của văn học viết Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX. Mời các em cùng tham khảo nhé!

Soạn bài Khái quát VHVN từ TK X đến hết TK XIX Ngữ văn 10 đầy đủ

1. Soạn câu 1 trang 111 SGK Ngữ văn 10 đầy đủ

- Điểm chung:

+ Phát triển trên cơ sở văn tự của ngư­ời Hán.

+ Đều miêu tả hiện thực cuộc sống, ca ngợi tinh thần tự hào dân tộc, lí tưởng chống giặc ngoại xâm.

+ Đều có đư­ợc những thành tựu rực rỡ và kết tinh đ­ược những tác phẩm xuất sắc.

+ Có nhiều thành tựu nghệ thuật thơ ca xuất sắc.

- Điểm khác nhau:

+ Văn học chữ Hán:

  • Ra đời vào thế kỉ X.
  • Gồm thơ và văn xuôi.
  • Chủ yếu tiếp thu từ Trung Quốc: chiếu, biểu, hịch, cáo, truyện truyền kì, kí sự, tiểu thuyết chương hồi, phú, thơ cổ phong, thơ Đường luật,…

+ Văn học chữ Nôm:

  • Cuối thế kỉ XIII mới xuất hiện.
  • Chủ yếu là thơ, rất ít tác phẩm văn xuôi.
  • Chỉ tiếp thu một số thể loại từ Trung Quốc (phú, văn tế, thơ Đường luật) sáng tạo các thể loại mới (ngâm khúc, truyện thơ, hát nói).

2. Soạn câu 2 trang 111 SGK Ngữ văn 10 đầy đủ

Những giai đoạn phát triển của văn học Việt Nam thời kì này như sau:

- Đầu tiên chính là giai đoạn hình thành và mở ra sự thay đổi cho văn học thời kì này, giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV:

+ Văn học chữ Nôm bao gồm các sáng tác bằng chữ Nôm, ra đời muộn hơn văn học chữ Hán (khoảng cuối thế kỉ XIII), tồn tại, phát triển đến hết thời kì văn học trung đại.

+ Văn học chữ Nôm chủ yếu là thơ, rất ít văn xuôi. Trong văn học chữ Nôm, chỉ một số thể loại tiếp thu từ Trung Quốc như phú, văn tế, thơ Đường luật, còn phần lớn là thể loại văn học dân tộc như ngâm khúc (viết theo thể song thất lục bát), truyện thơ (lục bát), hát nói (viết theo thể thơ tự do kết hợp với âm nhạc), hoặc thể loại văn học Trung Quốc đã được Việt hóa như thơ Đường luật thất ngôn xen lục ngôn.

+ Văn học chữ Nôm có những thành tựu lớn ở tất cả các thể loại kể trên.

+ Ở văn học trung đại, hai thành phần văn học chữ Hán và chữ Nôm cùng phát triển, bổ sung cho nhau trong quá trình phát triển của văn học dân tộc.

- Giai đoạn từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII:

+ Văn học chữ Hán: phát triển với nhiều thể loại, đặc biết là thành tựu của văn chính luận và văn xuôi tự sự.

+ Văn học chữ Nôm: có sự Việt hóa thể loại tiếp thu từ Trung Quốc, đồng thời sáng tạo các thể loại dân tộc.

+ Một số tác phẩm tiêu biểu như: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi; Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ; Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi; Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông,...

- Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX:

+ Phát triển văn xuôi và văn vần ở cả hai thành phần văn học.

+ Văn học chữ Nôm: đạt đến đỉnh cao.

+ Văn học chữ Hán: có những thành tựu nhất định.

+ Chinh phụ ngâm – nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, bản dịch Nôm của Đoàn Thị Điểm.

+ Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái.

- Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX:

+ Văn học chữ quốc ngữ xuất hiện nhưng văn học chữ Hán và chữ Nôm vẫn là chính.

+ Sáng tác theo thể loại và thi pháp truyền thống.

+ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu.

+ Truyện thầy La-za-rô Phiền của Nguyễn Trọng Quản.

3. Soạn câu 3 trang 112 SGK Ngữ văn 10 đầy đủ

- Chủ nghĩa yêu nước:

+ Chủ nghĩa yêu nước là ngọn cờ đầu tiên và đánh dấu sự thay đổi của văn học thời kì này, đây là nội dung lớn, xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại Việt Nam.

+ Chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại gắn liền với tư tưởng “trung quân ái quốc” (trung với vua là yêu nước, yêu nước là trung với vua).

+ Chủ nghĩa yêu nước biểu hiện rất phong phú, đa dạng, là âm điệu hào hùng khi đất nước chống ngoại xâm, là âm hưởng bi tráng lúc nước mất nhà tan, là giọng điệu thiết tha khi đất nước trong cảnh thái bình thịnh trị.

- Chủ nghĩa nhân đạo:

+ Chủ nghĩa nhân đạo cũng là nội dung lớn, xuyên suốt văn học trung đại Việt Nam.

+ Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại vừa bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo của người Việt Nam, từ cội nguồn văn học dân gian, vừa chịu ảnh hưởng tư tưởng nhân văn tích cực của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo.

+ Truyền thống nhân đạo của người Việt Nam biểu hiện qua những nguyên tắc đạo lí, những thái độ ứng xử tốt đẹp giữa người với người... Tư tưởng nhân văn của Phật giáo là từ bi, bác ái; của Nho giáo là học thuyết nhân nghĩa, tư tưởng thân dân; của Đạo giáo là sống thuận theo tự nhiên, hòa hợp với tự nhiên.

+ Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại rất phong phú, đa dạng, biểu hiện ở lòng thương người; lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp lên con người; khẳng định, đề cao phẩm chất, tài năng của con người; những khát vọng chân chính như khát vọng về quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do, khát vọng về công lí, chính nghĩa; đề cao những quan hệ đạo đức, đạo lí tốt đẹp giữa người với người.

+ Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo qua các tác phẩm văn học của Nguyễn Trãi (Đại cáo bình Ngô, Tùng, Cảnh ngày hè...), Nguyễn Bỉnh Khiêm (Ghét chuột, Nhàn...), Nguyễn Dữ (Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên...).

- Cảm hứng thế sự:

+ Biểu hiện rõ nét từ văn học cuối thời Trần (thế kỉ XIV). Khi triều đại nhà Trần suy thoái là lúc văn học hướng tới phản ánh hiện thực xã hội, phản ánh cuộc sống đau khổ của nhân dân.

+ Cảm hứng thế sự trở thành nội dung lớn trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua những bài thơ viết về nhân tình thế thái.

+ Văn học viết về thế sự phát triển trong hai thế kỉ XVIII và XIX; nhiều tác giả hướng tới hiện thực cuộc sống, hiện thực xã hội đương thời để ghi lại “những điều trông thấy”. Lê Hữu Trác viết Thượng kinh kí sự, Phạm Đình Hổ viết Vũ trung tùy bút.

+ Bức tranh về đời sống nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến, một xã hội thành thị trong thơ Tú Xương. Cảm hứng thế sự trong văn học trung đại đã góp phần tạo tiền đề cho sự ra đời của văn học hiện thực sau này.

4. Soạn câu 4 trang 112 SGK Ngữ văn 10 đầy đủ

Về nghệ thuật văn học Việt Nam giai đoạn này cần chú ý những nội dung sau:

+ Đầu tiên chính là sự thay  đổi về nghệ thuật trong văn học, tính quy phạm: coi trọng mục đích giáo huấn, tư duy theo kiểu mẫu nghệ thuật sẵn có, quy định chặt chẽ trong thể loại, dùng nhiều thi liệu cổ, tính ước lệ, tượng trưng.

+ Sự phá vỡ tính quy phạm: những tác giả tài năng trong VHTĐ vừa tuần thủ tính quy phạm vừa phá vỡ nó, phát huy cá tính sáng tạo trong nội dung và hình thức.

- Khuynh hướng trang nhã và xu hướng bình dị:

+ Khuynh hướng trang nhã: hướng tới cái cao cả, đề cao vẻ đẹp tao nhã, sử dụng chất liệu ngôn ngữ cao quý, diễn đạt trau chuốt.

+ Xu hướng bình dị: gắn bó với hiện thực, hướng tới cái đời thường giản dị, vẻ đẹp đơn sơ mộc mạc, ngôn ngữ tự nhiên.

- Tiếp thu và dân tộc hóa tinh hoa văn học nước ngoài: tiếp thu ngôn ngữ, thể loại, thi liệu của văn học Trung Quốc nhưng có cải biến, đặc biệt sự ra đời chữ Nôm và việc Việt hóa thơ Đường, sáng tạo các thể thơ dân tộc đã cho thấy quá trình dân tộc hóa văn học. 

Ngày:19/10/2020 Chia sẻ bởi:Nguyễn Minh Duy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM